Notes
![]() ![]() Notes - notes.io |
nghiên cứu và phân tích bài thơ https://bpackingapp.com/phan-tich-bai-tho-cau-ca-mua-thu-day-du-va-hay-nhat-34-mau/ ">Câu cá ngày thu của Nguyễn Khuyến. Dành khuyến mãi bạn đọc 34 mẫu nghiên cứu và phân tích bài thơ Câu cá mùa thu hay nhất do Bpackingapp.com tổng hợp nhé!
phân tích bài thơ Câu cá mùa thu 1
Nguyễn Khuyến là kẻ có cốt cách thanh cao & giàu lòng yêu nước, ông một lòng không hợp tác với kẻ địch. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình, làng cảnh Việt Nam”. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm thơ hay và đặc biệt là chùm ba bài thơ thu điển hình cho làng quê, cảnh quan nước ta. trong những số đó trông rất nổi bật hơn hết là bài Câu cá ngày thu.
nếu như ở bài Thu vịnh cảnh thu được tiếp nhận từ cao xa rồi mới đến gần thì bài Câu cá mùa thu khung cảnh thiên nhiên mùa thu lại được tiếp nhận tại 1 chiều kích khác: từ gần rồi tiến ra cao xa và từ cao xa trở về gần. Khung cảnh được xuất hiện thêm với tương đối nhiều khunh hướng rất chi là tấp nập.
Cảnh thu được xuất hiện thêm với Tấm hình không gian rất là trong trẻo:
Ao thu giá lạnh nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
không gian mùa chiếm lĩnh được gợi nên từ sự dịu nhẹ, nguyên sơ nhất của cảnh vật với làn nước trong xanh, không một gợn đục. ngày hè đã trải qua, những trận mưa lớn với dòng nước đỏ đục đã mất không chỉ vậy là cái thanh tĩnh, trong trẻo của làn nước, của cảnh vật. Trong khoảng không nhỏ hẹp ấy là Hình ảnh của chiếc thuyền câu nhưng nó không thể lọt thỏm giữa không gian thiên nhiên và lại rất hài hòa và hợp lý, tương xứng. tác giả vẽ ra khung cảnh tưởng như đối lập ao thu – thuyền câu, nhưng kì thực chúng lại hòa quyện với nhau đến kì khôi. Bởi vật người sáng tác chọn là ao thu chứ Chưa hẳn hồ thu – gợi xúc cảm rộng lớn, choáng ngợp. Ao thu ấy khi có thuyền câu ở kề bên có thể trở nên hài hòa, cân xứng và đậm chất khung cảnh làng quê Bắc Bộ nước ta. Hai câu thơ đầu gieo vần eo nhưng không hề gợi lên cảm xúc eo hẹp, nhỏ nhắn, tù túng mà hoàn toàn ngược lại gợi nên cái nhỏ nhắn, thanh thoát của cảnh vật.
bức họa đồ thu thường xuyên được Nguyễn Khuyến phác họa ở cặp câu thơ tiếp theo:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
những đường nét của khung cảnh cũng rất là mảnh mai với sóng hơi gợn tí, lá khẽ đưa vèo, Dường như mọi vận động đều rất chi là nhẹ dịu, thanh thoát. áp dụng thủ thuật lấy động tả tĩnh Nguyễn Khuyến đã làm nổi bật sự tĩnh lặng tuyệt vời của khoảng không, của cảnh vật. Phải là khoảng không vô cùng yên tĩnh thì thi nhân mới có thể cảm nhận tiếng động thật khẽ, thật êm của cảnh vật, mặc dù là sóng có gợn hay chiếc lá khẽ đưa, bằng giác quan sắc sảo, nhạy cảm Nguyễn Khuyến đã nắm trọn từng khoảnh khắc của vạn vật thiên nhiên. Sắc vàng nếu như ở những bài thơ khác đó là sắc màu chủ đạo, là điểm nhấn để gợi nhắc mùa thu thì trong câu thơ của Nguyễn Khuyến sắc vàng ấy cũng giống như bao sắc màu khác trong bức tranh: xanh của trời, xanh ngắt của nước,… nó chỉ góp phần tạo nên đường nét hài hòa và hợp lý cho bức họa, tuyệt nhiên không gợi xúc cảm buồn bã lo âu của tâm trạng, hay héo úa của cảnh vật. không dừng lại ở đó, cái hồn bình dân, vẻ đẹp ngày thu của làng quê Bắc Bộ còn được gợi lên từ các ngõ trúc quanh co:
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
khoảng không được lan rộng ở chiều cao, tác giả hướng góc nhìn lên khung trời để cảm nhận được cái “xanh ngắt” của bầu trời, và rất thoải mái và tự nhiên thu góc nhìn về với ngõ trúc quanh co. không gian ngày thu rất chi là tĩnh lặng. Mọi chuyển động đều quá nhẹ nhàng, êm ái không đủ để gợi nên âm thanh, duy chỉ có tiếng động của tiếng cá đớp mồi: “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo”. Nhưng cái động đó kết phù hợp với từ “khẽ” lại chỉ càng nhấn mạnh, tô đậm hơn cái yên ắng, im thin thít của cảnh vật. Với thẩm mỹ lấy động tả tĩnh, Nguyễn Khuyến đã cho thấy cái thanh tĩnh tuyệt đối hoàn hảo của làng quê nước ta trong cảnh thu thanh thản, dịu nhẹ.
Bài thơ có nhan đề là Câu cá mùa thu, nói về chuyện câu cá mà thực lại không phải vậy. Mượn chuyện câu cá để cảm nhận hết trời thu, cảnh thu vào cõi lòng mình. Hẳn Nguyễn Khuyến phải có con tim thanh tĩnh đến tuyệt đối hoàn hảo mới hoàn toàn có thể có nhận rất đầy đủ sắc đẹp của mùa thu: trong xanh, cái hơi gợn tí của nước, độ rơi khẽ khàng của lá. đặc biệt quan trọng sự tĩnh lặng trong tim hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ tiếng động độc tôn trong bài thơ là tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Sự tĩnh lặng trong cảnh vật gợi cho những người đọc cảm nhận về sự cô đơn, uẩn khúc trong lòng hồn nhà thơ. Trong bài những gam màu lạnh có mặt nhiều: trong veo, trong veo,… Hình như cái lạnh của thu thấm vào con tim nhà thơ hay chính con tim cô đơn của tác giả phủ rộng sang cảnh vật. Đặt trong toàn cảnh giang sơn đầy biến thiên bây giờ, có thể thấy bài thơ thể hiện tâm trạng đau buồn của Nguyễn Khuyến trước hiện tình tổ quốc đầy đau thương.
Bài thơ biểu thị có tài sử dụng ngữ điệu bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Tiếng Việt trong sáng, đơn giản và giản dị nhưng lại miêu tả được toàn bộ nhưng gì tinh tế, xinh xắn nhất của cảnh vật, mô tả được tâm trạng & tấm lòng của nhà thơ. Gieo vần “eo” – từ vận lộc tình góp phần diễn tả không gian nhỏ hẹp và tâm trạng đầy uẩn khúc của tác giả. thẩm mỹ và nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên cái yên bình tuyệt đối của thiên nhiên.
Bài thơ Câu cá ngày thu với ngôn từ bậc thầy không những cho người đọc thấy tài năng của Nguyễn Khuyến trong các công việc dùng từ. Mà đằng sau đó ta còn cảm nhận được 1 con tim gắn bó tha thiết với vạn vật thiên nhiên, đất nước, tấm lòng yêu nước thầm lặng nhưng không hề kém phần sâu nặng.
nghiên cứu bài thơ Câu cá mùa thu hay nhất 2
mùa thu vốn là một đề tài không còn xa lạ trong thơ ca việt nam. Thu thường đưa tới cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí mật. đã không ai tình cờ mà hoàn toàn không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã là thi sĩ! Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều này. Cảnh mùa thu trong thơ ông Chưa hẳn là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời nào, mà là ngày thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ bây giờ. chỉ từ bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), & cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm mê đắm lòng bao thế hệ! Khi nhận xét về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn bắt buộc phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử đào bới xem ra làm sao mà “Thu điếu là điển hình hơn hết cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?
nếu như ở Thu vịnh, mùa sở hữu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái không gian rộng rãi, mênh mông, bát ngát, với cặp mát hướng thượng, tò mò dần những tầng cao của ngày thu để thấy được: “Trời thu trong veo mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả ngày thu tại 1 khung cảnh thiên nhiên rộng rãi, không hẳn là trời thu, rừng thu hay hồ thu, và lại chỉ gói gọn trong 1 ao thu: ao chuôm là điểm lưu ý của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh mát nước trong veo
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Câu thơ đầu sống sót hai vần “eo”, câu thơ biểu lộ sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác nóng bức, yên tĩnh một cách quái dị. không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ đó lại càng thấy cảnh tĩnh hơn thế nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả lại không bị số lượng giới hạn mà lan rộng ra ra nhiều chiều, trong cái không gian se lạnh đó có vẻ như khiến cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không còn xuất hiện, thế mà thật bất ngờ: Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh thiên nhiên và có dấu vết của cuộc sống thường ngày con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật đẹp đẽ. Câu thơ đọc lên, khiến cho đối tượng người dùng miêu tả trở nên thân cận & thân mật biết bao! Với hai câu bắt đầu, nhà thơ sử dụng các từ ngữ gợi Tấm hình, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh đìu hiu, ít người qua lại. và rồi hình ảnh:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Càng để cho không khí trở nên yên bình hơn, nhà thơ đã dùng cái động của “lá vàng trước gió” để miêu tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê VN. các cơn gió mùa thu đã có mặt & đưa đi cái lạnh quay trở về, khiến ao thu không thể “lạnh lẽo”, không hề tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã bắt đầu đổi khác hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” & chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng chừng như xích míc với nhau, nhưng thật ra ở chỗ này Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ & thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong khoảng không, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đời thường thật sâu sắc thì Nguyễn Khuyến mới hoàn toàn có thể cảm nhận được những âm thanh sắc sảo, tưởng chừng như chẳng ai Để ý đến như thế! Như trên đã nói: mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng tác giả không xẩy ra số lượng giới hạn mà đã lan rộng ra không gian theo độ cao, tạo ra sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
bầu trời thu trong veo bấy lâu vẫn là khuôn mặt đẹp của ngày thu. các áng mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà “lơ lửng”. trước đó Nguyễn Du đã từng viết về ngày thu với:
lung linh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. lộ diện khoảng không rộng, xúc cảm Nguyễn Khuyến lại trở về với khung cảnh làng quê thân thuộc cũng vẫn Hình ảnh tre truc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co…tất cả đều thân thiết vè nhuốm sắc tố thôn quê VN. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét quê tĩnh lặng, dịu dàng êm ả như thế. Trời sang thu, không khí mát rượi, đường làng cũng vắng tanh. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không bóng người qua lại. trong tương lai Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới đã và đang bắt đựơc các nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã ban đầu bước vào các ngày giá lạnh:
các luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Cùng với: Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)
Thế rồi trong cái không khí se lạnh đó của thôn quê, các tưởng sẽ không tồn tại bóng hình của con người, ấy vậy mà thật bất ngờ đột ngột đối với những người đọc:
Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hai câu thơ kết thúc đã góp phần biểu hiện vài nét về chân dung tác giả. Tôi nhớ không lầm có vẻ như đã có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ Chưa hẳn là “buông”. Theo VN tự điển thì “buông” hay hơn, phù hợp với tính cách của nhà thơ hơn. giữa những ngày từ quan lui về ở ẩn, ngày thu câu cá, chính là thú vui của nhà thơ nơi làng quê để tiêu khiển trong những công việc, để hoà mình vào thiên nhiên, mà quên đi những bận lòng với nước non, cho tâm hồn thanh bình. “Buông”: thả lỏng, đi câu không cốt để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng nghĩa của nó), mà để vui chơi giải trí, do đó “ôm” chưa phù hợp với hoàn cảnh. Từ “buông” đưa tới cho câu thơ công dụng thẩm mỹ cao hơn nữa.
tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ so với vạn vật thiên nhiên, so với cuộc sống: chỉ có những ao nhỏ, các “ngõ trúc quanh co”, màu xanh da trời của khung trời, cũng đã làm mê đắm lòng người. Thì ra ngày thu ở thôn quê chẳng có gì là không quen, ngày thu ở thôn quê chính là cái hồn của cuộc sống đời thường, cái duyên của nông thôn. Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm xúc, vừa biểu hiện đựơc cuộc sống ngây thơ nhất với sự việc sử dụng các âm thanh rất trong trẻo có tính chất vang ngân của các cặp vần, đã chiếm được tình cảm của fan hâm mộ, đã đọc sang một lần thì khó mà quên được.
Bài phân tích 3
Thu điếu Nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm cùa Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu hiện mối tình thu đẹp mà đơn độc, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương nước nhà. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ hoàn toàn có thể được Nguyễn Khuyến viết vào vài ngày sau khi ông đã từ quan về sống ở quê hương (1884)
Hai câu thơ: Ao thu mát rượi nước trong xanh – một chiếc thuyền câu bé tẻo teo xuất hiện thêm một khoảng không thẩm mỹ và nghệ thuật, một phong cảnh ngày thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh mát như bao trùm không gian. không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới nóng sốt như vậy. trên mặt ao thu đã có một cái thuyền câu bé tẻo teo tự lúc nào. một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo có nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí – Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tả không gian hai chiều. sắc tố hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ để cho chiếc lá thu gold color khẽ đưa vèo, khiến cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm trông rất nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế và sắc sảo trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là 1 trong những nhân tự mà về sau thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu).
bức họa chiếm lĩnh được lan rộng ra dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
khung trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bát ngát. Áng mây, tầng mây lơ lửng nhè nhẹ trôi. thoáng rộng, êm đềm, yên bình & nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con phố làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng tĩnh mịch không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự đơn độc, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp & quen thuộc cùa làng quê. Thi sĩ giống như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức họa thu mới xuất hiện một đối tượng người sử dụng khác:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu nghĩa là ngày thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc. Mãi đến phần kết mới có mặt người câu cá. Một tư thế nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với cùng một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với ngày thu quê nhà. Người câu cá đang sinh sống tại một tâm trạng cô đơn & lặng lẽ buồn. 1 cuộc đời thanh bạch, một con tim thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã không còn lời ca tụng cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… & chỉ có một gold color của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm đềm, yên bình mà man mác buồn. Một tâm thế an nhàn & thanh cao gắn bó với mùa thu quê nhà, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là 1 sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê gần gũi, vần thơ: veo – teo – vèo – teo – bèo, phép đối tạo sự hợp lý phù hợp, điệu thơ nhẹ dịu bâng khuâng… cho biết thêm một bút pháp nghệ thuật và thẩm mỹ rất chi là điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất đi thành chương. Thu điếu là 1 bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt bút.
Bài nghiên cứu 4
Đi câu là một chiếc thú thanh tao của các bậc trí giả. Có bậc hiền nhân có tài năng, bất đắc chi đi câu để chờ thời. Ngồi trên bờ ai mà nghĩ đến chuyện năm châu bốn biển, nghĩ đến thế sự đảo điên. “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ” (có người còn dùng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha – Trung Quốc). Có bậc đại nhân vác cần đi câu để hương thú nhàn tản, hòa phù hợp với thiên nhiên, suy tư trong trạng thái thư giãn. Nguyễn Khuyến đi câu theo kiểu này. Ông đã mở hết những giác quan để cảm nhận mùa thu, cũng là mùa câu của xứ Bắc. tựa như các đứa trẻ trong xóm, ông câu cá cũng chăm chú, cũng bối rối, cũng hút hồn. công dụng của game show ấy là ông đã được 1 bài thơ “Thu điếu” vào loại kiệt tác của nền vãn học nước nhà:
Ao thu mát rượi nước trong veo,
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời trong veo.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bức Ảnh ngày thu hiện lên trong bài thơ với cùng 1 không gian hẹp ở chốn làng quê của tác giả, trong 1 cái ao nhỏ với chiếc thuyền câu nhẹ thênh thênh:
Ao thu lạnh giá nước trong xanh,
một cái thuyền câu bé tẻo teo.
Cái tôi trữ tình lặn phía sau ngôn từ. cảm hứng của thi nhân thì hiện lên sắc sảo và tinh tế và sắc sảo. mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút gì là kĩ xảo cả.
Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo.
Ao thu không còn tĩnh lặng nữa mà đã nổi sóng với hai thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) & hai thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng nhỏ vì ao nhỏ, lại là trong chỗ khuất. Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại sở hữu màu sắc, “sóng biếc” thật đẹp. Ngòi bút của người sáng tác sắc sảo đến từng cụ thể chi tiết nhỏ. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc” đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc thù của ngày thu. “Hơi gợn tí” so với “khẽ đưa vèo”, chuyển động của chiều dọc cân xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” trên mặt ao trong veo. Cái gold color của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
(Bích Khê)
và đó là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới góc nhìn của Xuân Diệu: “Cái mê hoặc của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có 1 màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.
Nhà thơ mở không gian lên độ cao làm cho không khí khoáng đạt và khoảng không được mở rộng nên bức họa đồ “Thu điếu” thêm đường nét, thêm màu sắc:
Tầng mây lơ lửng trời trong veo,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Màu da trời “xanh ngắt” thật là đẹp, màu xanh da trời xao mà tha thiết. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của độ cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” những áng mây trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là thanh thản. Rồi người sáng tác lại quay lại cận cảnh với Tấm hình của làng quê. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co rất gần gũi với bóng tre trùm lạnh lẽo. Nhưng bao giờ trong thơ Nguyễn Khuyến tre cũng nói là trúc, “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Nguyễn Khuyến thích cái hình thể loại cây chí khí ấy “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. các nét trúc thẳng đốì lập với các nét quanh co của đường làng thật là quyến rũ. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách váng teo”. bức họa đồ thu đượm buồn. những thi sĩ thích diễn tả cảnh thu trong yên bình, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang các chuyến đò
(Đây mùa thu tới)
Bài thơ kết thúc với Hình ảnh của người đi câu như 1 nét tự họa:
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, Hình như để tương xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Người đi câu đang đắm chìm ngập trong suy tư thì một cử động đã làm cho nhà thơ sực tỉnh:
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) mô tả một chút ít xao động trong làn ao & rất nhiều xao động trong trái tim thật là tài tình.
Có chủ kiến nhận định rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha & nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả 2 ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thơ chỉ muôn tan hòa vào vạn vật thiên nhiên, vào non nước. tất cả hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyên lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn tán thành với ai chính là chuyện riêng. Tôi tán thành với Nguvễn Khuyến.
Trong chùm thơ nội dung bài viết về ngày thu của Nguyễn Khuyến, nếu được chọn một bài thì đó là bài “Thu điếu”. Bài thơ “Thu điếu” là kiệt tác trong nền thơ cổ điển nước nhà. bức họa đồ mùa thu được diễn đạt bằng những hòa sắc sắc sảo, các đường nét gợi cảm. Nhạc điệu cũng rất dị. vần gieo hiểm hóc mà tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không còn lép chữ nào. Thật là 1 nghệ sĩ cao thâm. Cái tình của nhà thơ cũng đuổi theo kịp cái tài. Cái tình của nhà thơ đối với quê hương làng cảnh, với đất nước nước nhà thấm trong những chữ mỗi lời làm xúc động hết thảy mỗi con tim nước ta.
Bài nghiên cứu 5
mùa thu luôn là cảm hứng dạt dào, không còn xa lạ trong thi cổ trung đại. ngày thu mang về các cảm hứng dạt dào mãnh liệt trong từng trang văn, khiến cho cảm hứng của mọi người lại bâng khuâng, xao xuyến, dào dạt. Nó để cho mỗi người nghệ sĩ lại sở hữu nguồn xúc cảm, nhấc bút để tỉa ra từng chữ tinh hoa trên trang giấy. trong các số đó phải nói đến Nguyễn Khuyến với 3 chùm thơ thu nổi tiếng. Mỗi bài mang trong mình 1 màu sắc rất đặc biệt và ta phải kể đến “thu điếu” với một phong cảnh nên thơ mà man mác buồn.
“Ao thu mát mẻ nước trong xanh
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
vẻ đẹp miền quê Bắc Bộ được vị Tam nguyên Yên Đổ lột tả một cách tinh tế với mang khá nhiều nét nên thơ và rất dị rất độc đáo. Bằng có tài năng tả cảnh Nguyễn Khuyến đã thổi hồn vào cảnh vật, khung cảnh ngày thu đưa tới cho đất trời mua thu một sắc đẹp nên thơ rất cá tính. Một bức họa đồ làng quê yên ả được mở ra ở đầu tác phẩm:
“Ao thu lanh tanh nước trong xanh
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
vị trí mà nhân vật trữ tình câu cá ở đấy là một cái “ao thu”. Hai chữ “ao” & “thu” kết hợp với nhau chia thành một sự vật “ao thu” như chỉ một chiếc ao mà riêng của mùa thu mới có. Một nét đặc trưng không lẫn với bất kể thứ gì của mùa thu, theo đó ta thấy rõ nét sắc thu đã ban đầu thấm đượm trong khoảng không đất trời. Tính từ “lạnh lẽo” được ghép với “ao thu” như muốn kéo cả khoảng không trùng xuống. Thu sang, từng cơn gió cành cây bước đầu đượm sự se lạnh của thời khắc giao mùa. sau một mùa hạ oi bức thì thu cũng đến với bao sự nóng sốt hòa lẫn cái se se của gió đầu mùa. Nhưng chính là cái “lạnh lẽo” trong trẻo với mặt nước hồ lạng lẽ, “nước trong veo”. Đến đây cả khoảng không nghệ thuật như được mở ra rộng hơn, yên bình đến quái gở.
Giữa nước trời “trong veo” ấy xuất hiện một chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”. Nguyễn khuyến ưa dùng những tính từ đặc biệt là các láy từ. Với láy từ “tẻo teo” chỉ sự rất nhỏ xíu của chiếc thuyền câu. một cái thuyền bé bỏng, lặng trôi giữa mặt hồ, vừa thực vừa mơ không gian đất trời Hình như càng thu hẹp hơn mà cũng nên thơ nhẹ hơn cả. từ này mà xuất hiện cho tác giả cảm nhận sự chuyển hóa cảu vạn vật đất trời
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Khung cảnh mùa thu đến đây như được xuất hiện thêm thêm cao lên, không thể là việc lạng lẽ ở 2 câu thơ đầu. những âm thanh, đường nét của khung cảnh ngày thu đã ban đầu len lỏi vào từng câu chữ, phá vỡ bầu không khí thanh tĩnh ban đầu. Từng con sóng “lăn tăn” nơi mặt hồ như nhấn mạnh thêm sự biến chuyển nhẹ nhàng của đất trời trong khúc giao mùa sang thu. Một động từ “vèo” cuối câu thơ ý chỉ vận tốc nhanh, thoáng qua, không kịp thâu tóm. có vẻ như có chút tâm tình của nhân vật trữ tình cũng rất được gửi gắm nơi mặt hồ yên ả, các đẩy sóng bé nhỏ, qua chiếc là vàng thoáng nhẹ lướt qua.
liên tục vẫn chính là những câu thơ về bức tranh màu thu nên thơ trữ tình được phác họa thêm thâm thúy trong từng nét chữ:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quang co khách vắng teo”
không thể là cái “ao làng” nhỏ nhắn, mát mẻ nuwqax mà không dừng lại ở đó là những chóm mây xanh trên tầng cao đất trời. các đám mây “lơ lửng” đưa đi một ít lờ đờ đến bình thản của lòng người. Nét thu chấm phá lên nên trời xanh ngắt đặc thù khiến lòng người khó cưỡng lại. Thu trong thi cổ thường mang trong mình 1 màu ảm đạm & vắng tanh. Nhưng thu trong thơ Nguyễn Khuyến thật êm đềm, nhẹ dịu, bình yên. mùa thu phẳng lặng, trầm tĩnh ấy như nhuốm cả không gian đất trời trong cả từng con đường, “ngõ trúc” cũng đìu hiu, cô quạnh. những tuyến phố làng nhỏ quanh co không bóng người. “Khách vắng teo” với cách gieo vần “eo” càng gợi tả thêm sự trầm tĩnh đến cùng cực. bóng hình người cũng không có thấy gì, làm tăng sự cô quạnh, yên bình của không gian khiến người sáng tác trầm ngâm.
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Hai câu kết của bài thơ ta Dường như vẫn khó hoàn toàn có thể nhận biết bóng hình của nhân vật trữ tình, người chủ của chiếc thuyền câu bé tẻo teo kia. mùa thu là mùa của màu buồn, nó khiến con người ta góp thêm phần cô quạnh, buồn bâng khuâng và điều này cũng không tránh khỏi với Nguyễn Khuyến. người sáng tác thu mình lại, cô đơn giữa bầu khoảng không tĩnh lặng, lạc điệu. Tư thế “tựa gối” lại thêm phần thu nhỏ Bức Ảnh người sáng tác, khiến cho đất trời cũng trở nên chật hẹp hơn.
Một động từ “đớp” có vẻ như khuấy động của việc yên bình của toàn bài thơ. Đấy chính là thủ pháp lấy động tả tình rất đặc sắc của nhà thơ. Hình ảnh “cá đớp” ấy làm cho người sáng tác giật mình khi đang chìm đắm trong phong cảnh u buồn của ngày thu, nó Hình như đánh thức suy nghĩ, thức tỉnh người sáng tác ra khỏi sự chìm đắm u buồn mà quay về với thực tại. Sẽ chẳng thể nghe thấy tiếng đớp động nhỏ bé ấy nếu ta đang ở trong một cộng đồng đấy sự vội vã. Bức Ảnh cá đớp chắc rằng cũng là Tấm hình ẩn dụ cho những biến động của xã hội bấy giờ, dân tình loạn lạc, quốc gia lầm than. qua đó ta thấy được phần nào tấm lòng người sáng tác đối với dân với nước nhưng cũng đành bất lực, chưa biết tỏ cũng ai, giãi cùng người.
“Thu điếu” của Nguyễn Khuyên đã vẽ ra một bức họa đồ làng quê thuộc vùng Bắc Bộ mang trong mình một sắc tố rất giản dị và đơn giản những cũng không kém phần rực rỡ. một khung cảnh yên bình, một bức họa đồ nên thơ trữ tình cùng các nét đượm buồn của ngày thu đặc trưng. cùng theo đó cũng cho ta hiểu phần nào nỗi niềm, tình thế cô quạnh, bất lực trước vận mệnh đất nước, trước sự loạn lạc của xã tắc đương thời mà không hề giãi bài cùng ai.
Bài nghiên cứu 6
người sáng tác Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là đứa con sinh tại vùng đất Nam Định nhưng ông lại có tầm khoảng thời gian lớn lên và gắn bó với xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tuy gia đình nhà nho của ông phải sống cuộc sống thường ngày khó khăn nhưng Nguyễn Khuyến đã vượt khó & bằng năng lực sẵn có của bản thân mình, ông đánh bại những kì thi khoa bảng 1 cách xuất sắc: cả ba kì thi đều đỗ đầu (từ năm 1864 đến năm 1871). chính là lí do mà người đời thường gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ. dù cho có công danh nhưng Nguyễn Khuyến lại chọn sống một cuộc sống thường ngày bình dị, chân phương nơi quê nhà với việc làm dạy học chứ không chọn ra làm quan cả cuộc sống. chính là con người có tài và phẩm chất thanh cao. Ở ông có những thể hiện rất riêng cho tấm lòng yêu nước sâu sắc vậy cho nên suốt cuộc sống mình, ông đều thể hiện thái độ bất hợp tác với thực dân Pháp một cách nhất quyết.
góp sức nổi bật nhất của Nguyễn Khuyến vào nền văn học dân tộc giang sơn chính là ở mảng thơ Nôm, dù ông có viết cả các sản phẩm thực tế chữ Hán. tác phẩm của Nguyễn Khuyến dù được nhà thơ biểu thị dưới hình thức nào đi chăng nữa thì hiển hiện rõ rệt & đồng bộ nhất là tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước.
Việc nghiên cứu Câu cá ngày thu sẽ được triển khai qua từng cặp câu. Hai câu thơ đầu xuất hiện thêm khung cảnh rất là quen thuộc của làng quê Việt Nam:
Ao thu mát rượi nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Bài thơ sử dụng Tấm hình “ao thu” là vấn đề nhìn khởi đầu. Tuy khoảng không bắt đầu của tác phẩm thu hẹp trong phạm vi ao thu nhưng tiếp sau không gian rất gần gũi ấy là “chiếc thuyền câu bé tẻo teo” – Bức Ảnh không hề lạ lẫm nhưng miêu tả được động thái của mùa thu. hoàn toàn có thể thấy, cách Nguyễn Khuyến dẫn dắt người đọc vào bài thơ của bản thân mình là rất độc đáo. Không nhất thiết là các Hình ảnh to lớn, hùng hổ mà chỉ cần một không gian ao thu nhỏ xinh, một chiếc thuyền câu be bé như cũng muốn thu lại trong cảnh là đủ để thấy được Hình ảnh bình dị, gần gụi của quê nhà đang đắm mình trong mùa thu.
mặc dù vậy, Nguyễn Khuyến không chỉ đơn thuần tả cảnh, ẩn trong cảnh ấy vẫn là cái tình của con người. những tính từ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” tuy được sử dụng để gợi tả đặc tính của cảnh nhưng cũng phần nào chuyển tải được tâm tư của con người. Trong khoảng không thu hẹp kia, con người có mặt & có khi con người ấy cũng nhận thấy sự “lạnh lẽo”, “bé tẻo teo” của bản thân mình trong sự vắng tanh, vắng vẻ của cảnh nhưng cũng đồng thời cảm nhận được bản thân như cũng “trong veo” cùng cảnh ấy.
Hai câu thơ tiếp theo sau là nét vẽ hỗ trợ cho bức họa đồ thu của Nguyễn Khuyến như có hồn hơn:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Cặp câu có sự sóng đôi của Hình ảnh “sóng biếc” và “lá vàng”, không chỉ có vậy lại là sự phối hợp của màu “biếc” và sắc “vàng” làm nên hài hoà của bức họa đồ mùa thu, dịu mát, nhẹ dịu nhưng không còn nhạt nhoà. bức họa thu qua nét vẽ của bàn tay tài hoa của Nguyễn Khuyến lại trở nên nhộn nhịp hơn vì sự hoạt động của các sự vật khá gần cận trong cuộc sống thường ngày con người, nhưng sự chuyện động ấy lại sở hữu sự đối diện bởi phía bên dưới mặt ao sóng nước nương theo làn hơi để “gợn tí” nhưng bên trên khoảng không là trạng thái “khẽ đưa vèo” của lá vàng trước gió. Chữ “vèo” trong câu thơ sử dụng thật đắt, Hình như đó chính là một trong những số ít những câu thơ làm hài lòng vị Tam Nguyên Yên Đổ.
Cặp câu tiếp theo giúp cho bức họa thu thêm lan rộng ra về khoảng không và đặc biệt là có thấp thoáng bóng dáng của con người:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
nếu mà câu thơ trước tác giả khiến người đọc hướng mắt từ mặt ao lên không gian thì lúc này khoảng không đã mở ra rộng lớn hơn bởi trời cao & xa hơn bởi tuyến đường ngõ trúc quanh co. Trong câu thơ thứ năm, nhà thơ khiến người đọc có sự chú tâm đặc biệt vào màu “xanh ngắt” của mây trời trong cái trạng thái lơ lửng êm đềm trôi. Hướng cái nhìn từ trên cao xuống mặt đất và phóng tầm mắt ấy ra xa để thấy sự quanh co của ngõ làng có hàng trúc, mặc dù Hiện tại con ngõ ấy “vắng teo” nhưng khẳng định chắc chắn nó đã từng có lần có người qua lại. hoàn toàn có thể ở đây, sản phẩm thực tế của Nguyễn Khuyến làm người đọc cảm nhận thấy vắng tanh, tĩnh mịch nhưng tuyệt nhiên đó không phải là cái vắng tanh, vắng lặng của buồn bã, buồn bã.
Bài phân tích Câu cá ngày thu sẽ khép lại bằng sự việc cảm nhận Hình ảnh của nhân vật trữ tình qua hai câu thơ cuối:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Trong thơ, nhân vật trữ tình hiện diện trong tư thế “tựa gối buông cần”. Nếu ứng nhân vật trữ tình vào cuộc sống nhà thơ thì đấy là thời khắc nhà thơ đã từ bỏ chốn quan trường danh lợi để chọn cuộc sống bình dị, nhàn thân ở nơi thôn quê dân dã. Âm thanh “cá đâu đớp động” mà tác giả nghe được gợi một điều gì xa vắng, không rõ rệt nhưng cũng là sự bừng tỉnh. điều ấy cũng không khó hình dung vì Nguyễn Khuyến là người học rộng tài cao nhưng lại sở hữu tấm lòng yêu nước thương dân. vậy nên, ông không gật đầu đồng ý một cuộc sống làm bù nhìn, luồn cúi trước bọn thực dân độc ác, mưu mô. & cuối cùng, Nguyễn Khuyến đã chọn cho chính bản thân cuộc sống ẩn dật nhưng thanh bạch. Tưởng chừng, với ông chính là cuộc sống an nhàn nhưng thật ra có khi nhà thơ chỉ nhàn thân chứ không nhàn tâm bởi sâu trong ông vẫn tồn tại nặng mối lo cho dân cho nước. thế nên mới có cái thảng thốt nhói đau mỗi lúc ngoại cảnh có gì xao động như tiếng cá đớp động dưới chân bèo.
Bài phân tích 7
Viết về đề tài mùa thu nếu mà ở văn học China có “Thu hứng” của Đỗ Phủ là vượt trội & rực rỡ thì nền văn học dân tộc Việt không hề không nhắc tới chùm thơ thu của cụ Tam Nguyên Yên Đổ_Nguyễn Khuyến. Chùm thơ thu gồm ba bài “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm” mùa thu hiện lên qua cái nhìn đa tình của nhà thơ. nhất là bài thơ“Thu điếu” (Câu cá mùa thu) mang nét rực rỡ riêng “điển hình hơn hết cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”, đằng sau cảnh thu, tình thu là tâm trạng, nỗi niềm thầm kín của người sáng tác.
Nguyễn Khuyến là kẻ học rộng tài cao ba lần đỗ tú tài và ra làm quan dưới triều vua Tự Đức, tận mắt chứng kiến “từng bước cơn hấp hối” của cơ chế phong kiến thối nát. Ông không chịu hợp tác với giặc, muốn giữ mình thanh sạch mà đã về ở ẩn sau hơn mười năm làm quan. Chùm thơ chiếm lĩnh được Nguyễn Khuyến sáng tác sau thời điểm về ẩn cư nơi quê nhà.
“Thu điếu” cũng tương tự hai bài thơ thu đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bằng ngôn từ dân tộc bản địa chữ Nôm. toàn bộ cảnh thu, tình sở hữu được biểu đạt hiện lên rõ nét trong tám câu thơ.
bắt đầu bài thơ là khoảng không, thời hạn của mùa thu ở làng quê Bắc Bộ:
“Ao thu nóng sốt nước trong veo
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
khoảng không ở đây là ao thu. Ao là đặc thù của vùng quê chiêm trũng quê nhà của tác giả. thời hạn không phải là đầu thu có chút oi ả xen lẫn của mùa hạ mà chắc rằng là khi phân thu nên mới có hơi lạnh của việc “lạnh lẽo”. Tính từ “Trong veo” đặc tả độ trong của nước có vẻ như hoàn toàn có thể nhìn xuyên thấu xuống phía bên dưới, nó gợi ra sự thanh sạch và tĩnh lặng trên mặt ao. Tính từ “lạnh lẽo” như càng làm cho sự tĩnh mịch ngày càng tăng. không chỉ vậy “một chiếc thuyền câu” số từ chỉ số ít “một chiếc” cùng với tính từ “bé tẻo teo” gợi sự bé xíu đến rất chi là. Chiếc thuyền câu như co lại là một trong những chấm trên nền của ao thu. tác giả sử dụng nghệ thuật và thẩm mỹ chấm phá điểm nhãn. Trên cái nền yên tĩnh của mặt ao xuất hiện một cái thuyền câu bé tẻo teo. Hai câu thơ đầu đã mở ra một khoảng không thu với phong cảnh rất mộc mạc, đơn giản mang nét đặc trưng chất thu, khí thu của làng quê Bắc Bộ.
nếu như ở hai câu đề trông rất nổi bật lên là sự việc tĩnh lặng thì hai câu thực đã mang những nét chuyển động nhưng nó lại động để tĩnh. Lấy cái động của cảnh vật mà tả cái tĩnh của ngày thu chốn thôn quê.
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai Tấm hình “sóng biếc”, “lá vàng” tưởng như không có mối liên hệ mà có một sự lô ghích, chặt chẽ với nhau. Vì gió thổi khiến cho sóng gợn, lá rơi. Cảnh vật chuyển động chẳng phải ào ạt của lá mùa thu như trong thơ Đỗ Phủ mà nó thật khẽ khàng, nhẹ dịu sóng chỉ hơi gợn tí, lá chỉ khẽ đưa vèo. những tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ” được sử dụng thật tài tình, kết phù hợp với nhau tạo cho màu sắc, Hình ảnh làm cho cảnh thu có thể trở nên sôi động có hồn. Chữ “vèo”khiến cho Tản Đà khâm phục, tâm đắc vô cùng. Ông thổ lộ một đời thơ, ông mới có được một câu thơ vừa lòng “Vèo trông lá rụng đầy sân”. Nguyễn Khuyến phải là một trong con người có một con tim tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm nhận được sự hoạt động mà như tĩnh tại. thẩm mỹ lấy động tả tĩnh đã được dùng thắng lợi đem lại hiệu quả cao.
khoảng không cảnh vật không chỉ là bó hẹp trong khoảng không của mặt nước, của ao thu mà được mở rộng ra hai chiều với 1 tầm nhìn cao hơn nữa, xa hơn. chính là cái nhìn toàn cảnh bao quát lên cả bầu trời với khá nhiều đường nét, sắc tố thoáng đạt:
“Tầng mây lo lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
bầu trời xanh ngắt vẫn luôn là khuôn mặt đẹp của ngày thu, có lần Nguyễn Du đã có lần viết: “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” bầu trời xanh trong, cao thẳm của “Thu điếu” có sự đồng bộ với không gian mây trời của “Thu vịnh” “Trời thu trong veo mấy tầng cao” hay trong “Thu ẩm” với “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”. Mây trời trong “Thu điếu” không trôi mà “lơ lửng” gợi một cảnh thu đẹp và yên tĩnh như ngưng đọng lại trên khoảng không bao la, to lớn. Chiều sâu không gian được cụ thể hóa bằng độ “quanh co” của ngõ trúc. Bức Ảnh cây trúc xuất hiện không hề ít trong thơ của ông, nhìn khái quát nó mang trong mình một nét vắng lặng & đượm buồn mà Nguyễn Khuyến đã viết: “Dặm thế ngõ trúc đâu từng ấy/Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”. màu xanh của da trời, màu xanh lá cây của trúc bao phủ lên sắc màu của khoảng không. Cảnh vật có thể trở nên u tịch, cô liêu, hiu hắt với tính từ “vắng teo” có nghĩa là vắng tanh, vắng vẻ không một bóng người cùng theo đó cũng cho thấy sự thoáng mát, trong lành của không gian nơi đây.
Sự ảnh hưởng của ngoại cảnh khiến cho con người không khỏi chạnh lòng mà cô đơn. Nguyễn Khuyến có lần đã từng có lần tự thán về nỗi cô độc của đời mình: “Đời loạn mang lại như hạc độc/Tuổi giá hình bóng tựa mây côi” (Cảm hứng).
Sáu câu thơ đầu là việc miêu tả về cảnh vật, về mây trời non nước mùa thu. Đến hai câu kết ta mới thấy sự có mặt của con người. Cái ý vị nhất của bài “Thu điếu” nằm ở 2 câu cuối: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Tấm hình cụ Tam Nguyên Yên Đổ xuất hiện với tư thế ngồi bó gối buông cần thả câu khiến cho một đường nét bất động trên bức họa đồ thu tĩnh lặng. Nhà thơ ngồi câu cá mà tâm thế như đặt ở ở đâu không chú tâm đến sự việc câu để rồi giật mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Một lần tiếp nữa nghệ thuật và thẩm mỹ lấy động tả tĩnh được dùng thành công. Tiếng cá đớp khiến cho vận động nhỏ cũng để cho nhà thơ giật mình tỉnh giấc tựa chiêm bao nó gợi lên sự tĩnh lặng, vắng lặng đến rất chi là. Cách hỏi “cá đâu” thật rực rỡ tạo sự mơ hồ trong không gian & sự ngỡ ngàng trong tim của người điếu ngư. Bức Ảnh ấy khiến cho ta liên tưởng đến cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thư thả ngồi uống rượu dưới gốc cây:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống/Nhìn xem giàu sang tựa chiêm bao”
thực chất, câu cá chỉ là cái cớ để Nguyễn Khuyến miêu tả bức họa thu, thông qua đó nhà thơ biểu lộ tâm hồn và tâm trạng của mình. Hình ảnh người đi câu cá có thể khiến ta liên tưởng tới con người thi sĩ, nho sĩ trước tình trạng tổ quốc giờ đây. Theo tay nghề của dân gian nước trong thì không có cá nhưng tiếng cá đớp động chân bèo đã tiếp thêm động lực cho người điếu ngư không nản chí mà liên tục công việc của chính bản thân mình. cũng tương tự vậy chính trị việt nam bấy giờ rối ren, thực dân Pháp xâm lược, triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu đuối mà chóng vánh thỏa hiệp để hồn nước rơi vào tay giặc. Nhà thơ vì muốn bảo toàn khí tiết hãy lựa chọn tuyến đường về ở ẩn noi gương tiền nhân Phố Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay cụ Đào Tiềm_Đào Uyên Minh bên China một đời quyết giữ để mình thanh sạch. dẫu thế, âm thanh cá đớp động như đánh thức nhà Nho, nhà trí sĩ yêu nước như thức tỉnh thôi thúc ông đứng lên đấu tranh bảo vệ nền chủ quyền dân tộc. Nhưng âm thanh ấy thật mơ hồ cũng giống như trăn trở trong tâm địa nhà thơ liệu rằng mình hoàn toàn có thể cống hiến giúp đời hay là bất hợp tác và ký kết với giặc lánh mình ẩn cư.
như vậy Nguyễn Khuyến không chỉ là biểu lộ các tình cảm thương yêu vạn vật thiên nhiên, quê hương quốc gia mà còn kín đáo bày tỏ nỗi buồn trong sạch nhưng cô đơn của một ẩn sĩ, tuy nặng lòng yêu nước nhưng cam phận đành bất lực trước thời thế lựa chọn con đường lánh đục về trong.
Nguyễn Khuyến là 1 thay mặt lớn số 1 & cuối cùng của văn học trung đại việt nam ở quy trình cuối thế kỉ XIX. Thơ ông là sự phối kết hợp tài tình giữa tinh hoa văn học bác học với văn học dân gian. “Thu điếu” là 1 bài thơ hay & rực rỡ với việc chiến thắng của bút pháp nghệ thuật và thẩm mỹ lấy động tả tĩnh, chấm phá điểm nhãn, sử dụng các từ láy có tính gợi hình, gợi cảm cao đặc biệt là cách gieo vần “eo” thật tài tình. Bài thơ được thiết kế theo như đúng niêm, đúng luật của thể thơ vừa mang tính quy phạm của thơ ca trung đại cũng triển khai giải quy phạm với các phát minh sáng tạo mới không còn sử dụng những Bức Ảnh ước lệ, tượng trưng mà không chỉ vậy là sự việc mộc mạc, chất phác của cuộc sống nông thôn.
“Thu điếu” cùng với hai bài thơ trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đã đóng góp phần tạo ra sự sự đa dạng & rực rỡ cho đề tài viết về ngày thu của nền văn học dân tộc với nét đặc trưng là việc yên bình, thanh bình với các Tấm hình bình dị của làng quê.
Bài phân tích 8
Viết về đề tài mùa thu đã có lần có không ít những thi nhân mặc khách như Phố Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du thả hồn mình với non nước mây trời nhưng phải đến Nguyễn Khuyến với chùm thơ thu thì cảnh thu mới thực sự hiện lên rõ nét có những đặc thù của riêng nó. đặc biệt là bài “Thu điếu” “điển hình hơn hết cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam”. bức tranh thu thanh thản, tĩnh lặng với các Hình ảnh giản dị và đơn giản, mộc mạc mà có sức lôi cuốn riêng được thi sĩ đặc tả qua tám câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
nếu mà trong thơ Nguyễn Trãi cảnh thu vẫn là thu mượn với những Tấm hình ước lệ, tượng trưng thì cho tới Nguyễn Khuyến bằng có tài của mình đã đưa thơ nước ta phát triển lên một bước mới gần với hiện thực, cụ thể chi tiết và nhộn nhịp hơn trong bút pháp miêu tả. mùa thu trong thơ ông là ngày thu của dân tộc, mùa thu của vùng quê chiêm trũng Bắc Bộ.
mở đầu là khung cảnh mùa sở hữu được hiện ra trước mắt với hình ảnh:
“Ao thu lạnh ngắt nước trong veo
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Cảnh chiếm lĩnh được gói vào trong khoảng không eo hẹp và chật & tĩnh lặng, ao thu bé tí Nổi dậy là chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Hai câu thơ gợi cho ta thấy một khoảng không thật nên thơ chữ tình để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm người hâm mộ.
Nguyễn Khuyến tả cảnh thu không chỉ là dừng lại ở đó mà còn miêu tả thật tấp nập với Hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” có các hoạt động thật nhẹ nhàng, tinh tế. Cái động ấy càng tô đậm thêm sự tĩnh tại của cảnh vật với nghệ thuật và thẩm mỹ lấy động tả tĩnh. Chữ “vèo” gợi ra cái thanh mảnh, mong manh của chiếc lá ngày thu nhưng có một sức hút làm ra rực rỡ nghệ thuật và thẩm mỹ để cho Tản Đà phải tâm đắc, khâm phục. Ông thổ lộ một đời thơ ông mới có được một câu thơ vừa ý “Vèo trông lá rụng đầy sân”.
Nguyễn Khuyến như hóa thân thành nhà quay phim, tầm nhìn của ông như chiếc máy quay khi gần, khi xa, khi ở dưới mặt ao rồi lại quay đến tầm cao trên bầu trời hay là cả chiều sâu hun hút của ngõ trúc quanh co. Ngõ trúc là đặc trưng của làng quê Bắc Bộ. Phải là một trong con người có tình yêu vạn vật thiên nhiên, yêu quê nhà giang sơn đến vô cùng mới có được tầm nhìn tổng thể đến từng cụ thể chi tiết diễn tả cảnh thu. greed color của da trời, màu xanh của trúc che phủ lên sắc màu của không gian. Cảnh vật có thể trở nên u tịch, cô liêu, hiu hắt với tính từ “vắng teo” có nghĩa là vắng ngắt, vắng ngắt không một bóng người đồng thời cũng cho thấy thêm sự thoáng đãng, trong lành của khoảng không nơi đây.
Cảnh thu trong bài thơ “Câu cá màu thu” là khung cảnh đẹp có sự vắng lặng, thanh bình. Mọi sự vận động đều trở nên rất nhẹ nhàng, chuyển động mà như có như không của sóng gợn, của lá thu điệu đà bay trong gió. Con người tại chỗ này cũng như vậy không thể to lớn tựa như các con người của thời buổi với tư thế “hoành sóc” như trong “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão mà nó cô liêu, đơn độc bé nhỏ trong không gian:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Nguyễn Khuyến xuất hiện với tư thế ngồi bó gối buông cần thả câu choàng lên vẻ trầm tư tạo cho một đường nét bất động trên nền bức họa thu yên bình. Nhà thơ như mơ hồ giữa thực tại mà bất giác bị giật mình khi tiếng cá đớp động dưới chân bèo. có thể nói rằng âm thanh vang lên trên cái nền tĩnh động của khoảng không là nét đặc sắc trong đẳng cấp thẩm mỹ và nghệ thuật tả cảnh của nhà thơ. Con người & cảnh vật như hòa vào nhau làm một tạo cho một bức tranh thủy mặc đậm màu cổ điển. Cái tĩnh cái buồn ấy nó không chết lặng mà vẫn có sự trong sạch, thơ mộng & có sức sống bất diệt trong thơ ca.
Bài thơ “Câu cá mùa thu” đã đặc tả được bức họa đồ ngày thu của làng cảnh việt nam thật đối với cả những sắc đẹp đơn sơ, bình dị đậm chất thôn quê được tái hiện qua lăng kính con tim & chiến thắng với nghệ thuật và thẩm mỹ mô tả tài tình của tác giả. Nguyễn Lộc đã nhận được định: “Nói về thiên nhiên, trong văn học cổ có tương đối nhiều, tả nét đẹp của vạn vật thiên nhiên ngày thu trong văn học cổ rất lôi cuốn. Nhưng trước Nguyễn Khuyến chưa bao giờ có một vạn vật thiên nhiên đậm đà phong vị của quê nhà tổ quốc đến thế.”
Bài nghiên cứu 9
Nguyễn Khuyến Được biết thêm đến nhiều nhất với chùm thơ thu gồm.ba bài thơ bằng tiếng Nôm một trong đó chính là “ Câu cá mùa thu” . xuyên suốt bài thơ là 1 nét thu đẹp yên bình nơi làng quê thời thời trước, bộc lộ một nét cô đôn trong tâm hồn một nhà Nho yêu quê hương yêu nước nhà thời bấy giờ. Sau khoảng tầm thời hạn ông từ quan về quê hương, hàng loạt nhưxng tác phẩm ra đời như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”.
mở màn bài thơ là hai câu thơ
“ Ao thu nóng bức nước xanh ngắt
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
chỉ cần đọc hai câu thơ ta có thể tưởng tượng ra phong cảnh ngày thu, một không gian nghệ thuật đang bao trùm bao quanh tất cả chúng ta. Nước xanh ngắt của ao hoàn toàn có thể giúp ta nhìn xuyên thấu được qua lòng ao, một không gian mát mẻ đang phủ rộng ra khắp không gian. không hề cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh mát như thế. chưa biết từ bao giờ mà trên lòng ao đã xuất hiện một cái thuyền câu giữa khoảng không mênh mông to lớn Dường như sự đơn độc của chiếc thuyền đang tỏa khắp rộng ra khắp không gian. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo). Đó là 1 nét thu đẹp & êm đềm. Tiếp đó cùng phi vào quả đât thẩm mỹ của hai câu thơ tiếp theo:
“ Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai câu thơ đang gợi tả cảnh vật xung quanh theo không gian hai chiều có thể nhìn bằng mắt là sóng đang gợn & tai có thể nghe thấy tiếng lá được gió đưa vèo. vô cùng mộc mạc giản gị nhưng cũng có thể có thể cho tất cả những người ta thấy được sự hài hòa của sắc tố được tác giả diễn đạt có sóng biếc có lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ để cho chiếc lá thu gold color khẽ đưa vèo, khiến cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. không dừng lại ở đó bên cạnh đó tác giả còn phối kết hợp sử dụng phép đối một cách vô cùng tài tình giúp cho nét chiếm lĩnh được nhấn mạnh giúp người đọc hoàn toàn có thể tưởng tượng ra khoảng không mà người sáng tác đang biểu đạt giống như đang ở trước mặt mình một cách vô cùng chân thực và rõ ràng. Phải công nhận một điều là ngòi bút của người sáng tác Nguyễn Khuyến rất chi là sắc sảo trong dùng từ & cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một trong nhân tự mà trong tương lai thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu). Chưa tạm dừng ở đấy Nguyễn Khuyến còn làm chúng ta mở rộng tầm mắt hơn ở cả hai câu thơ tiếp theo:
“ Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Một bầu trời xanh ngắt và thăm thẳm bao la & to lớn đang che phủ lấy khoảng không nơi đây. những áng mây đang lẳn lặng trôi trên bầu trời rộng lớn như đang nhấn mạnh vấn đề sự rộng lớn của khoảng không nơi đây. thoáng đãng, êm đềm, yên bình & nhẹ dịu. Không một bóng người lại qua trên tuyến phố làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo có nghĩa là rất chi là lặng ngắt không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
chắc rằng Một trong những sự vật quen thuộc với Bức Ảnh làng quê chính là ngõ trúc và tầng mây. Hai sự vật này đã từng xuất hiện ít nhiều trong số sản phẩm thực tế thẩm mỹ. Hình như tác giả đang tự thả mình & đắm chìm vào trong cảnh quan nơi đây nên mới rất có thể diễn tả 1 cách rất chi là chân thật như vậy được. Đến hai câu kết thì bức họa đồ thu mới có mặt một đối tượng người tiêu dùng khác:
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Thu điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Tấm hình người câu cá đến tận phần sau cùng mới thấy xuất hiện với cùng một tư thế tựa gối ôm cần vô cùng nhàn nhã. trong lòng thế đợi chờ lâu chẳng được bỗng nhiên tác giả tự nhiên chợt tỉmh vì nghe thấy tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Sự chờ đón đã từ rất láu mãi đến lúc bấy giờ đã có một chút hiệu quả. Người câu cá như đang không quan tâm đến mọi thứ tạp niệm chỉ tập trung hòa tâm hồn vào trong không gian lúc bấy giờ, trong cảnh quan vô cùng đẹp tuyệt vời, và trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời kè sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có 1 tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với 1 tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với ngày thu quê hương. Người câu cá đang sinh sống tại một tâm trạng cô đơn & âm thầm lặng lẽ buồn. 1 cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.
Thu điếu là 1 trong những tác phẩm quá tuyệt vời của người sáng tác Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã có lần bộc bạch rằng trong Thu điếu có một nét diệu xanh mà người tả không tài nào hiểu hết vẻ đẹp, vẻ tinh túy của nó được. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. dẫu thế ẩn sâu trong cái yên bình này lại có một nỗ buồn man mác của người sáng tác. Một tâm thế an nhàn & thanh cao gắn bó với ngày thu quê nhà, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là 1 trong sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân mật và gần gũi, vần thơ: veo – teo – vèo – teo – bèo, phép đối làm ra hợp lý phù hợp, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng… cho biết thêm một bút pháp thẩm mỹ và nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất đi thành chương. Thu điếu xứng đáng là một trong tác phẩm tả cảnh ngụ tình xuất sắc trong chương trình Ngữ văn lớp 11.
Bài phân tích 10
Một trong những niềm vui thanh nhã của con người chính là đi câu cá. những bậc hiền tài rất lâu rồi cũng không ngoại lệ. nhiều khi họ đi câu cá để ngồi trên bờ suy nghĩ những chuyện giúp ích cho thiẻn hạ, chuyện naem cháu bốn biển, thế sự hòn đảo điên. các bậc cao nhán đi câu cá để hưởng thụ thiên nhiên, hòa tâm hồn vào khoảng không trời đất giúp mình cảm nhận thấy tự tại. người sáng tác Nguyễn Khuyến đã đi câu cá kiểu này, ông đã tận dụng mọi giác quan để cảm nhận hết mọi sự vật sự việc diễn ra bao quanh bản thân. Ông cảm nhận mùa thu một cách chân thực nhất, cũng giống như bao người khác khi đi câu ông cũng tập kết niềm tin, chờ đợi tác dụng. Cuối cùbg có lẽ rằng tác dụng cao lớn mà ông đã có được đó là tác phẩm “ Thu điếu”. trong những tác phẩm siêu phẩm của quốc gia.
“Ao thu giá lạnh nước xanh ngắt,
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời trong veo.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Bức Ảnh mùa thu hiện ra một cách vô cùng đơn giản và giản dị & thân thiện với khoảng không bình dị ở làng quê người sáng tác trong một cái ao nhỏ với một cái thuyền âm thầm trôi:
“ Ao thu lạnh giá nước trong xanh
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Đằng sau các ngôn từ dân giã đó chính là một cái tôi trữ tình của tâc giả. cảm xúc của thi nhân hiện lên vừa sắc sảo mà hết sức sắc sảo. mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút gì là kĩ xảo cả. Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo
Ao thu chẳng còn mang vẻ yên bình như lúc ban sơ nữa trái lại đã bắt đầu nổi những cơn sóng nhỏ với hai thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) và hai thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng nhỏ vốn lẽ bởi vì ao nhỏ, lại ở trong 1 hỗ khuất. Nét đặc biệt của mùa thu thì phải nói tới từng cơn gió nhẹ, từng ngọn gió heo may thổi qua 1 cách nhẹ nhàng. Con sóng được người sáng tác diễn đạt với sắc tố vô cùng mớ lạ và độc đáo và đặc biệt quan trọng “ sóng biếc” cho dù các cụ thể chi tiết bé nhất tác giả cũng đặt hết tận tâm của chính mình vào tạo nên một sự tinh tế và sắc sảo sâc sảo đến lạ thường. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc” so với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” so với “khẽ đưa vèo”, vận động của chiều dọc cân xứng với hoạt động của chiều ngang thật tài tình.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” trên bề mặt ao xanh ngắt. Cái gold color của ngày thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu bao la.
(Bích Khê)
Dưới cặp mắt nghệ thuật và thẩm mỹ của nhà thơ Xuân Diệu thì chiếc lá vàng trong thơ Nguyễn Khuyến “Cái mê hoặc của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.
Nhà thơ còn mở rộng khoảng không lên rất cao giúp cho bức tranh của Thu điếu góp phần rộng lớn, bao quát , thêm đường nét và thêm các đường sắc mới.
“ Tầng mây lơ lửng trời trong xanh,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Một màu xanh lá cây rất chi là nhẹ dịu nhưng rất chi là xinh tươi mng lại cho chúng ta một cảm xúc thoải mái thoải mái và dễ chịu. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của độ cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” các áng mây trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là thanh bình. Xa xa gần gần rồi tác giả bước đầu trở lại với Bức Ảnh thôn quê mộc mạc. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co rất gần gũi với bóng tre trùm lạnh buốt. những Bức Ảnh đã từng xuất hiện không ít trong những sản phẩm thực tế văn học thẩm mỹ. Nhưng mỗi người sáng tác đều phải sở hữu cách khiến cho Hình ảnh mình miêu tả có thể trở nên nổi bật & Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ. Nguyễn Khuyến chắc hẳn rằng rất thiach Hình ảnh của loài tre trúc ấy “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Ông đã nói đến nó trong tương đối nhiều sản phẩm thực tế nghệ thuật và thẩm mỹ chắc chắc rằng là do khí chất hiên ngang không chịu khuất phục của chính nó. “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Trên tuyến phố làng quê quanh co uốn lượn lại điểm xuyết các rặng trúc thẳng tắp Hình ảnh trái ngược nhưng lại góp phần cho chúg ta cảm nhận đượ hết nét gần gũi của làng quê nước ta. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách váng teo”. bức họa thu đượm buồn. các thi sĩ thích miêu tả cảnh thu trong yên bình, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang các chuyến đò
(Đây ngày thu tới)
Bài thơ kết thúc với Tấm hình của người đi câu như một nét tự họa:
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, Dường như để tương xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ đang đắm chìm vào sự suy tư quên hết đi mọi thứ tạp niệm thì tự nhiên một tiếng cử động nhỏ đã khiến người sáng tác sực nhớ mình đang đi câu cá.
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) mô tả một chút xao động trong làn ao & không ít xao động trong lòng thật là tài tình khiến cho người khác phải ngã mũ thán phục. Có ý kiến nhận định rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. thánh địa chỉ muốn hòa mình vào thiên cảm nhận được hết không khí ở chính nơi thôn quê mình đang sống. toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm thế nào thái độ đi câu của Nguyễn Khuyên lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn tán thành với ai đó là chuyện riêng. Tôi tán thành với Nguvễn Khuyến.
tất cả những sản phẩm thực tế trong chùm thơ của ông đều nói theo cách khác là rất chi là tuyệt hảo, tùy nhiên nếu cho tôi lựa chọn 1 tác phẩm tâm đắc nhất chính là “ Thu điếu”. Tác ohaarm này hoàn toàn có thể xem như là kiệt tác văn học trong nền văn học cổ điển nước nhà. Bài thơ như vẽ ra một bức họa đồ ngày thu ở trước ta 1 cách vô cùng chân thực. Nhạc điệu cũng độc đáo và khác biệt. vần gieo hiểm hóc mà tự nhiên và thoải mái, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không thể lép chữ nào. Quả thật Nguyễn Khuyến là 1 trong thi sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ cũng luôn song song với chữ tài. Một tình yêu to lớn đối với quê hương đất nước con người việt từng câu từng chữ mà tác giả nhắc tới đều tạo thành các cảm hứng trong tim hồn việt nam.
Bài phân tích 11
Thế kỉ XIX, nửa cuối, đất nước rơi vào cảnh loạn li, triều đình nhà Nguyễn đang trên đà suy vong nhưng văn chương chữ Nôm thì phát triển mạnh làm hoàn thành xong thêm ngôn từ tài hoa của truyện Kiều. những Nguyễn Đình Chiểu, Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến… ít dùng chữ Hán làm ngữ điệu thơ tựa như những nhà Nho của những thế kỉ trước. Họ đã dùng “chữ Nôm hóa thơ Đường’.
Khi lui về ở ẩn, ngoài ra bài thơ mang nỗi u hoài của cư dân mất nước, họ còn có những sản phẩm thực tế trữ tình mang Bức Ảnh thân mật và gần gũi của miền đất đang sinh sống. trong số những nhà thơ ấy có Nguyễn Khuyến. Nhà thơ viết các bài về mùa thu đậm đà tình yêu đồng quê, nội cỏ. trong những bài thơ nổi tiếng ấy là Thu Điếu – Câu cá ngày thu.
Ao thu lạnh mát nước trong veo,
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Nhà thơ đã ra mắt không gian, thời hạn & Hình ảnh đặc thù của nông thôn miền bắc bộ. khoảng không, trước mắt, là ao, thời hạn là ngày thu, Hình ảnh đặc trưng chính của bài thơ ấy là thuyền câu bé. Tiết trời ngày thu ở miền bắc bộ se lạnh, nước ao hồ ít bị khuấy động, lại thêm trời thu trong xanh khiến nước ao thu như trong ngần. Giữa cảnh ao thu như thế có chiếc thuyền câu bé. Vần eo ở các chữ trong hai câu mang cái thần của thẩm mỹ và nghệ thuật chọn từ, “ẻo” trong từ lẻo, “eo” trong từ veo, tẻo teo càng làm gia tăng độ lạnh, độ trong và sự bé nhỏ giữa khí hậu mùa thu, của nước & chiếc thuyền câu. Ao thu ở vùng quê đâu có rộng nhưng bỗng thấy mênh mông, thuyền câu đâu có nhỏ nhưng vẫn thấy nó bé bội phần sao với ao thu. Nguyễn Khuyến chọn từ để tả cảnh như vậy đấy.
Nếu ở 2 câu đề, người sáng tác phác thảo không gian chính ao thu rất tĩnh lặng thì ở cả hai câu thực người sáng tác đi vào chi tiết cụ thể, lan rộng ra không gian:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
mở rộng khoảng không để thấy gió qua Hình ảnh sóng biếc lăn tăn, chiếc lá vàng đưa vèo, chao xuống. Có một chút ít man mác buồn trong cảnh thanh vắng của vùng quê. Có gió hiu hắt mới, có sóng biếc, có lá vàng… Gió thu của Nguyễn Khuyến nhè nhẹ, gần trôi, trên bề mặt nước cũng đầy đủ gió heo may & lá vàng. Ngày trước, biết tới ngày thu khi thấy “ngó đồng điệu điệp lạc”, tới thời Nguyễn Khuyến có “lá vàng trước gió”, Tản Đà với “Trận gió thu phong rụng lá hồng”, Xuân Diệu cũng có những dòng:
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
ngôn ngữ thẩm mỹ và nghệ thuật có khác biệt nhưng sắc thu vẫn thế, vần gió se lạnh, vần lá vàng bay …
Từ không gian trên ao, quanh bờ ao, nhà thơ mở rộng tầm nhìn:
Tầng mây lơ lủng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Khung cảnh ao thu lúc bấy giờ đã có bổ sung thêm khung trời trong xanh như trong bài Thu vịnh. tất cả đều là những sự vật thiên nhiên, kể cả ngõ trúc quanh co. bức tranh ao thu, vạn vật thiên nhiên nông thôn khu vực miền bắc được vẽ những nét đơn sơ, mộc mạc như thế, như một bức tranh thủy mặc của 1 họa sỹ điêu luyện mang trái tim nồng nàn tình yêu thôn dã. Khó để có bức tranh ao thu như thế nếu tác giả không có con tim yêu quê & không có cặp mắt sắc sảo, không có các giác quan bén nhạy chọn những cụ thể hợp với tâm hồn. Chiếc thuyền câu bé nằm phí trong hai câu đề như vắng bóng con người, ngõ trúc quanh co cũng đành cho con người nhưng người không thấy có. tất cả chỉ là cảnh yên bình, mênh mang. Nếu có chút động đậy thì chỉ là các động hờ từ phong ấn trời mang đến. chúng ta thử đặt câu hỏi: Trong thời mình, thời cực thịnh của Lý – Trần – Lê chẳng hạn, nông thôn ở quê nhà Nguyễn Khuyến kể riêng, nông thôn miền bắc bộ kể chung có quạnh vắng, cô liêu; có cảnh ngõ trúc quanh co khách vắng teo đến như thế? – chắc rằng nào?! bức tranh thu ở nông thôn khu vực miền bắc trong thời bình không thể im thin thít đến thế. Thế thì tại sao? chúng ta cũng có thể lí giải, bàn thảo một cách đơn giản khi lật lại các trang sử thời buổi của nhà thơ. & nhìn vào bức chân dung, địa vị con người ở 2 câu kết:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ở câu thừa đề (câu 2), Hình ảnh một chiếc thuyền là Bức Ảnh hoán dụ thì ở câu kết (câu 7) có mặt Hình ảnh chính: con người. vị thế của con người tựa gối ôm cần thu nhỏ lại, chiếc thuyền đã bé bỏng con người ngồi tựa gối ôm cần càng bé thêm hơn, giống như đang chim đắm vào cõi suy tư. Dù tác giả chẳng dùng từ Hán – Việt, nhưng khi gặp Bức Ảnh tựa gối ôm cần có một số người nghĩ đến tích xưa: Khương Tử Nha đời nhà Chu ngồi câu cá chờ thời bên sông Vị Thủy, & sau là người đánh không khớp lắm với đời buổi giao lưu của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến không là kẻ chờ đón cơ hội mà là một trong những người đã từng có lần làm quan, nay lui về ẩn dật chỉ vì không mong muốn cam tâm làm tay sai cho giặc trong lúc triều đình Huế thì bảo thủ, ươn hèn. Trong nỗi buồn vận nước suy vong ấy, chắc hẳn rằng nhà thơ mượn thú câu cá để giải sầu. Nhưng khi buông câu chờ cá cắn, nỗi sầu ấy lại hiện về càng lúc càng sâu nặng. Một con cá gì đó khuấy động bèo thu làm nhà thơ quay trở lại với thực tại trốn chạy nỗi buồn của kẻ sĩ bất lực trước I nỗi dau của dân, của nước.
Thu Điếu mang ngày thu, hồn thu của làng quê VN qua ngôn từ thơ thuần Việt. Tài của nhà thơ là biến lời nói dân gian thành ngôn từ thơ trong sạch và đơn giản, tinh lọc những Tấm hình đơn sơ nhưng vượt trội & miêu tả 1 cách thật tự nhiên và thoải mái làm trông rất nổi bật cái vắng lặng bát ngát của trời đất, giữa cái im lặng bao la ấy đó là tâm sự u uẩn của con người. thẩm mỹ ấy đưa tới cho người đọc sức rung cảm thấm thìa. & như vậy, có một số người cho rằng Nguyễn Khuyến là một trong bậc thầy sử dụng ngữ điệu trong thơ quả là xác đáng.
Bài nghiên cứu 12
ngày thu luôn là đề tài được các nhà thơ nhàn văn ưu ái chọn lựa bởi vẻ đẹp man mác, đầy bí hiểm mà lôi cuốn của chính nó. chúng ta phát hiện điều này trong bài thơ câu cá màu thu của Nguyễn Khuyến, nó là 1 bài thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến Nằm ở phía trong tập thơ thu gồm ba bài là Thu Vinh, Thu Điếu & Thu ẩm. Bài thơ Thu Điếu diễn tả sắc đẹp yên bình của mùa thu ở vùng quê xưa, biểu thị mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của 1 nhà Nho nặng lòng với quê hương quốc gia.
Nếu trong bài thơ Thu vịnh, mùa chiếm lĩnh được nhà thơ Nguyễn Khuyến cảm nhận từ cái không gian rộng rãi, bát ngát, bát ngát “Trời thu trong veo mất tầng” thì sang đến Thu điếu, nhà thơ lại gói gọn ngày thu trong môt bầu trời hẹp hơn là ao thu- đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của người sáng tác.
Ao thu mát mẻ nước trong veo
một cái thuyền câu bé tẻo teo
Cách phối hai vần “eo” cho ta một xúc cảm nóng sốt, yên tĩnh một cách lạ đời. Câu thơ được chèn thêm hai từ “lẽo” và “veo” càng như tô đậm hơn khung cảnh tĩnh lặng không chỉ có thế. Khung ao tuy hẹp nhưng người sáng tác đã không giới hạn nó mà xuất hiện nhiều chiều, trong cái không khí se lạnh đó Dường như để cho ao cá ở độ thu lãi về trong trẻo hơn biết bao. Trong cái khung cảnh trống vắng, yên tĩnh lại sở hữu sự có mặt của “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” để cho không gian tĩnh có thể trở nên có động hơn, cảnh thu thêm phần êm ấm hơn vì có Bức Ảnh của cuộc sống con người nơi đây. Hình ảnh chiếc câu cá để cho đối tượng miêu tả có thể trở nên thân cận biết bao. Nếu hai câu đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi hình, tạo độ gợi, độ liên tưởng cao như “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” đưa về nỗi buồn man mác, sự đìu hiu thì hai câu tiếp sau
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo
Càng làm không gian tĩnh lặng hơn, nhà thơ sử dụng Tấm hình động của “lá vàng” để miêu tả cái tĩnh của cảnh sắc thu VN. Ao thu không thể sự “lạnh lẽo”, sự yên bình nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng theo gió khẽ đưa vèo”, cảnh vật có vẻ đã bắt đầu đổi khác. Hình ảnh con “sóng biếc” nhỏ “gợn tí”và “chiếc lá” mải mê theo gió “đưa vèo” tưởng như xích míc với nhau, nhưng thật ra tại chỗ này nhà thơ đã quan sát kĩ càng từng hành động rất nhỏ. chắc rằng phải có một tâm hồn yêu vạn vật thiên nhiên rất chi là, yêu cuộc sống thường ngày thâm thúy thì Nguyễn Khuyến mới rất có thể cảm nhận được các Tấm hình, những âm thanh sắc sảo, tưởng như chẳng ai chăm chú như vậy. tất cả khiến cho một khoảng không mở theo chiều sâu, chiều cao làm nên một sự thoáng rộng, thoáng đạt cho cảnh quan đất trời vào thu.
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tù xưa tới nay, Bức Ảnh bầu trời thu xanh ngắt vẫn luôn là khuôn mặt đẹp của màu thơ. các áng mây cứ hòa mình trôi “lơ lửng” khắp bầu trời thoáng mát, êm đềm, yên bình và nhẹ dịu. Ông mở ra một khoảng không đầy cảm xúc, thoáng rộng chen vào đó còn là cảnh sắc àng quê với Tấm hình tre trúc, những ngõ xóm quanh co,…tất cả đều thân thiện nhuốm màu thôn quê VN.”Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” gợi một sự lặng ngắt đến mức không có một tiếng động nhỏ nào làm người đọc liên tưởng tới sự cô đơn, trống vắng. Nhà thơ tinh tế lấy cảnh ngụ tình để biểu thị sự đơn độc của chính bản thân mình. các đường nét quê nhà yên bình, bình dị in đậm trong từng câu thơ của Nguyễn Khuyến.
Đến hai câu thơ kết thì bức họa đồ thu có sự xuất hiện mới mẻ và lạ mắt
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
độc giả chờ đến tận hai câu kết để thấy được sự xuất hiện của người câu cá, ông có mặt với tư thế rất chi là nhàn nhã: tựa gối ôm cần. Người câu cá đang ru mình trong giấc mộng mùa thu thì ông vẫn cảm nhận được các tiếng động nhỏ “cá đớp” mồi dưới chân bèo. có lẽ rằng trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, Hình như việc câu thú là nụ cười thanh trang của nhà thơ để quên đi chốn quan trường, thả mình vào thiên nhiên để quên lãng các bận lòng với nước non. Người câu cá đang sống tại một tâm trạng cô đơn & âm thầm lặng lẽ, 1 cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng nể trọng.
Đến với các vần thơ thu của Nguyễn Khuyến, ta thấy được 1 màu thu nên thơ, trữ tình đến lạ, cảnh màu thu trong thơ ông mang nét rực rỡ riêng in đậm chất thu của quê nhà người sáng tác, màu thu của vùng đồng chiêm Bắc Bộ bây giờ. chỉ còn khung trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (thu điếu), & cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm mê đắm lòng bao thế hệ fan hâm mộ. Nhận xét về chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diêu có viết “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn cả nhưng ta vẫn bắt buộc phải phân biệt thu điếu là điển hình nổi bật hơn hết cho mùa thu của làng quê Việt Nam”. Phải công nhận một điều, bài thơ thu điếu là bài thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút, sự hài hòa và hợp lý cân bằng giữa điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuân với việc áp dụng tài tình của bút pháp thẩm mỹ vô cùng điêu luyện, cách gieo vần của người sáng tác, tất cả tạo nên một bài thơ câu cá màu thu đi sâu vào lòng bạn đọc.
Bài thơ câu cá ngày thu của Nguyễn Khuyến là một trong những bài thơ nổi tiếng, là một bài thơ chứa đựng các giá trị mang tính nhân văn thâm thúy. Bài thơ bộc lộ được tâm tư tình cảm của nhà thơ đối với quê hương nước nhà và con người việt nam.
Bài nghiên cứu và phân tích 13
ngày thu là đề tài hấp dẫn các nhà thơ từ cổ chí kim. và thơ hay về mùa thu cũng không hẳn là hiếm. tuy nhiên người đọc, khi tìm đến các vần thơ thu, không nhiều người rất có thể quên được ba bài thơ nổi tiếng của Tam Nguyên Yên Đổ. Chính ba bài thơ đó đã đưa Nguyễn Khuyến biến thành nhà thơ kiệt xuất của làng cảnh VN. trong số những bài thơ toàn bích ấy, Thu điếu có một địa điểm khá nổi bật bởi vì nó “điển hình hơn cả” cho mùa thu xứ Bắc (Xuân Diệu).
Về thực chất, Thu điếu vẫn là bài thơ được viết theo lối đề vịnh, tả cảnh để diễn tình. Tài hoa của Nguyễn Khuyến là ở chỗ: dẫu bị gói gọn trong khuôn khổ của một bài thơ Đường luật, song lời thơ trong suốt tới cả không thể có một điển tích điển cố nào. không chỉ có thế, nhà thơ không tuân hành những quy định ngặt nghèo về hình thức đề – thực – luật – kết thông thường mà ưu ái cho cảnh (chiếm sáu câu đầu) chỉ dành hai câu cuối để thì thầm đi câu.
bức họa đồ cảnh sắc được khởi nguồn từ “ao thu”:
Ao thu nóng sốt nước trong veo
một cái thuyền câu bé tẻo teo.
nếu mà ở Thu vịnh, cảnh sở hữu được đón nhận từ tầm xa thì ở Thu điếu cảnh lại được chào đón ở tầm gần. “Ao thu” như 1 tiêu điểm để Từ đó, bức tranh về mùa chiếm hữu được nối dần cao, ra xa. phong cảnh, không gian hiện ra trong sự tĩnh lặng gần như hoàn hảo nhất – & sự vật: “chiếc thuyền” tương tự như cố thu nhỏ lại, trước là để hợp với “ao thu”, sau là để khuôn cảnh thu vào trong 1 khoanh vùng nhất định. những vần “eo” hóc búa được gieo tiếp tục nhau vừa chứng minh tài nghệ của người cầm bút, vừa làm cho khoảng không, từ chiếc ao, chiếc thuyền có thể trở nên gần cận, xinh xắn trong sự bình yên. Đến với câu thơ bắt đầu người đọc rất giản đơn có cảm giác rùng mình trước sự lanh tanh của cái “trong veo” đi liền với cái “lạnh lẽo” định tính.
Sóng biếc theo làn hơi gợi tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Đến đây mới thấy sự sống cựa mình. Cựa rất khẽ: “hơi” “khẽ”. Cái lạnh toả ra từ nước, cái lạnh theo gió thổi vào, khiến cho ao hơi lăn tăn sóng, khá đầy đủ để chiếc lá chao xuống nền thu… Phải là người có đầu óc quan sát rất tinh, nhập vào hồn của cảnh mới nhận thấy được cái biến thái tinh vi: hơi gợn tí, khẽ đưa vèo… kể tới ngày thu, Nguyễn Khuyến không dứt ra được cái màu vàng đặc thù, sexy nóng bỏng của chính nó. Nhưng đây không hẳn màu vàng do “non phơi bóng” trong thơ Nguyễn Du; cũng không mênh mông như trong thơ Bích Khê về sau: “Ô hay, buồn vương cây ngô đồng – Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông”. gold color mùa thu, qua hình hài của chiếc lá, thả một “điệu rơi” khẽ khàng bóng, xanh tre… Trước hai câu thơ này, Xuân Diệu thán phục: “Cả bài thơ không non ép một chữ nào, đặc biệt là hai câu 3 – 4 (…) Thật tài tình, nhà thơ đã tìm được cái vận tốc bay của lá, “vèo”, để phù hợp với khoảng độ gợn của sóng; “tí” & vừa, tất cả mùa chiếm lĩnh được bao bọc trong cái “toan” xanh to lớn da trời trong veo (cả ba bài thơ của Nguyễn Khuyên đều nhắc đến màu xanh “muôn đời” này của ngày thu. điều ấy cho biết, cách pha chế sắc tố, cách tạo đường nét trong Thu điếu đậm chất sắc hội họa phương Đông. bức họa đồ chiếm được phác vẽ bằng rất ít chi tiết nhưng đầy ấn tượng. Gần & thấp thì có ao, có thuyền, có sóng, cao hơn nữa thì có lá & cao hơn là trời xanh, tầng mây. Cảnh hoàn toàn lặng ngắt, nếu có xao động một chút: “khẽ đưa” “rơi vèo” thì cũng là để nhấn mạnh thêm đặc điểm thanh vắng ấy. những đám mây cao xa đủng đỉnh, lơ lửng như đính hờ, đính nhẹ vào áo thu xanh. Mùa sở hữu được nhìn lên rồi lại được nhìn xuống. “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Luật viễn cận dược kết hợp thật hài hòa. Cái im lặng tới mức gần như hoàn hảo nhất của cảnh thu trọn vẹn khớp ứng với tình thu. “Biết bao thời gian đã trôi qua trong khoảng không trong sạch yên bình ấy? Chắc là rất lâu, tư thế ngồi của ông câu như cũng bất động trước thời gian”. Đúng vậy, bài thơ thì thầm đi câu, nhưng chỉ có hai câu thơ cuối bài mới kể đến người đi câu, nói tới cá đớp chân bèo:
Tựa gối, ôm cần, lâu chătng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Cái tư thế của ông câu – giống hệt như cảnh – cũng đang cố thu nhỏ lại. Dường như ông không quan tâm đến chuyện đi câu. Vậy thì ông câu đang xuất hiện tâm trạng nào chăng? Trước hết, người đi câu “bất động” bởi đang lặng im giao cảm với thiên nhiên, lặng im để chọn cảnh thu, hồn thu “xâm chiếm lòng mình”. Hay nói khác đi, con tim thi nhân đang rộng mở trước cảnh thu. Cái trong, cái tĩnh của hồn người ứng với cái trong cái tĩnh của cảnh thu, hồn thu. cho tới bây giờ, chưa ai biết được đích xác Nguyễn Khuyến viết bài thơ này vào lúc nào. Nhưng có điều chắc hẳn rằng, nó được viết trong thời gian nhà thơ từ quan về quê, sinh sống tại cảnh thanh bần. Lánh đục để về trong, nhưng đâu riêng gì thi nhân không đau xót trước bụi trần, không chán ghét cảnh bon chen. vậy cho nên, trong cái tư thế “tựa gối ôm cần” kia, biết đâu chẳng trĩu nặng tâm tư nguyện vọng của người đi câu? Chỉ đến khi “cá đâu đớp động” mới khiến nhà thơ khi bất ngờ quay về với thực tại. Trong cái bất ngờ ấy, ta nhận ra chủ kiến của người đi câu là “khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một nhà thơ có phẩm cách thanh cao” (Trần Đình Sử), chứ không phải để vui chơi giải trí đơn giản.
cùng theo với Thu ẩm & Thu Vịnh, Thu điếu đã góp thêm một bức tranh thu đẹp tuyệt vời bởi một trình độ “chạm trổ” nghệ thuật bậc thầy. Làng quê việt nam, qua các chi tiết hốt sức tinh lọc, giàu sức gợi đã hiện lên với tất, cả vẻ đẹp yên bình, đầy chất thơ trong trắng. Trong cái lặng ngắt đến bát ngát ấy của cảnh thu, hồn thu, ta bắt gặp một nỗi niềm, một khát vọng Nguyễn Khuyến: được “câu thanh, câu vắng”, được giữ trọn khí tiết của mình. đó là một khát vọng đáng quý của 1 nhân cách đáng trọng.
Bài nghiên cứu 14
Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tâm lý Lão Trang và triết lí Đông phương. Thơ chữ Hán của ông phần lớn là thơ trữ tình. có thể nói rằng cả trên hai nghành nghề, Nguyễn Khuyến đều chiến thắng. Thu điếu được trích từ chùm thơ thu gồm ba bài: Thu điếu, thu vịnh. Cả ba thi phẩm đều được viết bằng từ chương, bút pháp thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh của văn học trung đại, nhưng vẫn mang đậm dấu ấn riêng của trong số những bậc thầy thơ Nôm đường luật xuất sắc.
Cảnh vật được chào đón từ gần đến cao xa rồi từ cao xa trờ lại gần. Từ điểm nhìn của 1 người ngồi chiếc thuyền ngó ra mặt ao, nhìn lên khung trời, nhìn tới ngõ vắng rồi lại trở người về với ao thu, nhà thơ đã quan sát khoảng không, phong cảnh thu theo người lương thật tấp nập.
“Ao thu lạnh ngắt nước trong xanh,
một cái thuyền câu bé tẻo teo.”
Nguyễn Khuyến đã chọn các cụ thể chi tiết rất tiêu biểu vượt trội cho ngày thu xứ Bắc (ao thu, gió thu, trời thu). Ao thu là thứ ao rất độc đáo chỉ mùa thu mới xuất hiện. Nguyễn Khuyến đã ghi nhận được hai đặt trưng của ao thu là lạnh giá & trong xanh – ao lạnh nước yên, trong đến tận đáy. Ao là nét thường gặp trong thơ Nguyễn Khuyến, nói tới ao là gợi đến một cái gì không còn xa lạ, rất gần gũi, con tim Nguyễn Khuyến là thế: thân thiện, bình dị, chân thành với hồn quê. Trời thu xanh ngắt cũng là hình thân quen trong thơ Nguyễn Khuyến. bầu trời thu trong veo xưa nay vẫn là khuôn mặt đẹp của ngày thu. các án mây không trôi nổi bay khắp khung trời mà lơ lửng. xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến là xanh trong, tinh khiết đến tuyệt vời và hoàn hảo nhất, không còn pha lẫn, không thể gợn tạp.
Đường nét vận động nhẹ nhàng, mảnh mai, tinh tế: hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, mây lơ lửng, đường bao thanh mảnh của rặng trúc, đường gợn của lượn sóng ao thu. Cảnh vật hiện hữu lên sự hài hòa và hợp lý, xứng hợp: Ao nhỏ – thuyền bé; gió nhẹ – sóng gợn; trời xanh – nước trong; khách vắng teo – chủ thể trầm ngâm tĩnh lặng. sau này Xuân Diệu trong bài Đây ngày thu tới cũng đã bắt được những nét nổi bật đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bước đầu lao vào các ngày giá lạnh:
các luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồng trong gió
Đã vắng người sang các chuyến đò.
nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của tác giả những từ láy vừa tạo hình, vừa gợi cảm, những tính từ và các từ chỉ mức độ như lạnh buốt, xanh ngắt, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, xanh ngắt, vắng teo, quanh co việc lựa chọn vầng eo đã gợi nên cảm nhận mỗi khi một thu hẹp diện tích
Cảnh buồn cảnh chẳng đeo sầu – bức họa cảnh thu đã hé mở cho chúng ta tình thu của người trong cảnh. hợp lý và phải chăng đây là tâm trạng thời thế của nhà thơ? Thời thế biến đổi nhanh quá! Thoáng chốc non sông đã mất trong tay đối thủ. Thoáng chốc thời cuộc đã vụt qua: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Mặt nước, tầng mây lơ lửng và sắc trời xuất hiện khoảng không cho bài thơ hợp lý cũng cùng theo đó chứa đựng những nỗi niềm tâm sự liệu có chút gì lơ lửng về thời cuộc? Chọn con phố ở ẩn để giữ trọn thân danh, giữ lấy cái cao khiết để như biểu tượng đăm đắm của khung trời kia phù hợp đã thật đúng, hay chỉ là để “chạy làng” trong cách nói cay đắng của một vị đại khoa.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo phải chăng là tâm sự đơn độc, cô quạnh? Nguyễn Khuyến có lần tự thấy mình như 1 cành cô trúc đó thôi! Lẽ loi và cô đơn, vắng teo trước thời cuộc rộn ràng. đó là tâm sự của 1 nhà nho lánh đời thoát tục tuy vậy vẫn không nguôi nghĩ về giang sơn, nhân dân, về việc bế tắc, bất lực của bản thân? Nhàn thân tuy nhiên không nhàn tâm, Nguyến Khuyến không thể thong thả đi câu như 1 ẩn sĩ thực thụ.
Câu thơ cuối, với tiếng động duy nhất: tiếng cá đớp động. hợp lí chính là âm thanh của cõi lòng người câu cá? Nguyễn Khuyến thủ thỉ câu cá nhưng thực ra tác giả không để ý vào vấn đề câu cá. Nói câu cá nhưng thật ra là để đón nhận trời thu vào lòng, gửi gắm tâm sự. Cõi lòng tĩnh lặng để cảm nhận độ xanh ngắt của nước, cảm nhận cái hơi gợn của sóng, cảm nhận độ rơi khẽ của lá. đặc biệt quan trọng cõi lòng tĩnh lặng được gợi lên thâm thúy từ một tiếng động nhỏ: tiếng cá đớp mồi. chính là sự tĩnh lặng hoàn hảo nhất của tâm cảnh, cõi lòng của thi nhân cũng yên bình, trong trẻo như làng quê Việt trong tiết thu.
Bài thơ Câu cá mùa thu bộc lộ sự cảm nhận & nghệ thuật và thẩm mỹ gợi tả tinh tế và sắc sảo của Nguyễn Khuyến về cảnh quan thu đồng bằng Bắc Bộ, cùng theo đó cho thấy thêm tình yêu vạn vật thiên nhiên, non sông, tâm trạng thời thế về tài thơ Nôm của người sáng tác.
Bài nghiên cứu 15
ngày thu, mùa của hoa sữa thoảng thoảng, mùa của rơm rạ vàng thơm, mùa được những nhà thơ yêu & đưa vào trong những trang thơ kinh khủng nhất. Với Hữu Thỉnh nhẹ nhàng mùi hương ổi ông đã cảm nhận được thu về: “Bỗng nhận biết hương ổi – phả vào trong gió se- sương chùng trình qua ngõ -hình như thu đã về”. Nhưng mùa thu trong ánh mắt Nguyễn Khuyến thì lại khác. Qua bài thu điếu ta thấy đằng sau cảnh thu yên bình thì lại là nỗi niềm tâm sự sâu kín của người thi sĩ.
Thu điếu viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú, đa số tám câu thơ đều tả cảnh, Hình ảnh con người chỉ xuất hiện ở 2 câu cuối. Cảnh của bài thơ vẫn chính là trời, nước gió, trúc.. những Hình ảnh thân quen trong thơ xưa.
Ao thu nóng bức nước trong xanh
Hình ảnh “ao thu” diễn đạt với tính từ “lạnh lẽo”. có lẽ cái lạnh của ngày thu cũng ngấm dần vào dòng nước và ngấm dần vào tâm hồn nhà thơ. Tính từ “trong veo” miêu tả làn nước, khoảng không yên bình.Nước xanh ngắt chứ không hẳn là lăn tăn gợn sóng li ty, hai âm “eo” được lặp liên tiếp ở câu trên & câu dưới để cho xúc cảm về sự việc tĩnh lặng càng có thể trở nên thật hơn.
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
không gian lanh tanh của mùa thu ấy có mặt chiếc thuyền cô đơn một mình. tác giả dùng từ “bé tẻo teo” để cho chiếc thuyền càng có thể trở nên nhỏ nhỏ nhiều hơn, cô đơn hơn. Nhà thơ Nguyễn Du đã có lần nói: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thật đúng cảnh dưới con mắt nhà thơ sao mà buồn tẻ, sao mà cô đơn đến lạ. cuộc sống thường ngày giờ đây yên bình đến khó thở chẳng có âm thanh để chứng tỏ cuộc sống thường ngày ồn ã vẫn đang tiếp nối
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
bức tranh thu tiếp tục hiện lên Hình ảnh “Sóng và lá vàng”. Mọi hoạt động đều khẽ khàng và nhẹ nhàng như vậy “sóng lăn tăn gợn tí”, “lá vàng đưa vèo”. người sáng tác thật tinh tế về sự sử dụng từ tượng hình và từ tượng thanh. Cảnh vật mô tả theo chiều hướng lấy động tả tĩnh, dù bức tranh ấy có âm thanh nhưng âm thanh khẽ khàng quá lại càng hiện hữu lên vẻ yên bình của ngày thu
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
khoảng không được mở rộng ra cả tầm cao và tầm rộng. “Tầng mây lơ lửng” mây cứ chùng chình lơ lửng, mây cũng chẳng muốn bay. cuộc sống chẳng hối hả hay tâm hồn nhà thơ đang sâu đầy tâm tư. bầu trời thu “xanh ngắt”, màu sắc đậm nét của bức họa thu, mỗi nét vẽ của Nguyễn Khuyến đếu rất dứt khoát để tả cảnh vật “ đưa vèo”, “hơi gợn tí”, “xanh ngắt”. Mây trời đơn điệu và tẻ nhạt. Còn ngõ trúc “quanh co”,“vắng teo”. Nguyên từ “vắng” đã nói rõ sự tĩnh lặng rồi nhưng tác giả lại còn sử dụng “ vắng teo” thì có nghĩa không gian thu ấy không âm thanh, không chút cử động, không bóng người chỉ có màu sắc ơ thờ không hòa quyện.
vì thế hai câu thơ cuối bài là 1 trong những sự trống vắng, là nỗi cô đơn đến thắt lòng
Tựa Gốm ôm cần lâu chẳn được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Đến đây Hình ảnh con người đã có mặt nhưng lại với tư thế “ ngồi tựa gối”, “ôm cần”. Trong trạng thái trầm tư & sâu cảm, cảnh vật đã cô đơn con người lại càng cô đơn hơn. Nhà thơ ngồi câu lâu chẳng được. Từ “cá đâu” là cách hỏi mơ hồ không lý thuyết, nhưng cũng đều có thể là việc ngỡ ngàng trong tâm người. Nhà thơ chìm sâu trong suy nghĩ miên man, mất cảm giác ở thực tại nên mới “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Nhà thơ muốn tìm sự thư thái trong tâm hồn nên mới đi câu. Nhưng cảnh vật tĩnh lặng đến ngẹt thở lại càng làm nhà thơ chìm sâu trong nỗi cô đơn.
Cảnh thu đẹp và buồn trong bài thu điếu đã được Nguyễn Khuyến diễn đạt thật khôn khéo & tinh tế. xúc cảm, tâm tư tình cảm của nhà thơ được dồn nén qua từng câu thơ, trong cảnh vật thu ấy. Thu điếu đi vào lòng người nhẹ dịu và buồn man mác, khiến người đọc biết thêm về làng quê VN với những nét xinh khác.
nghiên cứu bài thơ Câu cá mùa thu 16
mùa thu luôn là một đề tài muôn thủa của các thi sĩ. Trong nền văn học VN từ thơ Trung đại cho tới thơ tiến bộ, từ thể thơ cổ cho tới thơ chủ quyền, đã có rất nhiều tác phẩm hay viết về mùa thu, nhưng nhắc đến đề tài mùa thu, ta vẫn không còn không nói tới nhà thơ Nguyễn Khuyến. Với ông, Dường như ngày thu là nguồn cảm xúc đặc biệt quan trọng, chẳng vậy mà ông có cả một chùm thơ hay viết về mùa thu, trong những số ấy khá nổi bật nhất là bài “Thu Điếu”, hay còn gọi “Câu cá mùa thu”.
Chùm thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến gồm có ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu ẩm” & “Thu điếu”. Bài thơ nào thì cũng hay, cũng đẹp, cũng dạt dào tình quê, cảnh quê. mặc dù vậy, như Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng khẳng định bài thơ “thu điếu” là “bài thơ điển hình hơn hết cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Đây quả là lời nhận xét vừa chính xác, vừa tinh tế!
“Thu điếu” được viết bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ sắc sảo, giàu tính hình tượng & biểu cảm. Cảnh thu, trời thu, khí thu xinh đẹp của làng quê VN hiện lên trong tầm vóc và màu sắc tuyệt hảo dưới ngòi bút Nguyễn Khuyến qua bốn câu thơ đầu:
“Ao thu mát mẻ nước trong veo
Một chếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo.”
Với “Thu điếu” cảnh chiếm lĩnh được tiếp nhận theo phía mở rộng về khoảng không từ gần ra xa, từ thấp lên cao, rồi tiếp đến lại từ cao xa quay trở lại gần. cụ thể chi tiết là từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao rồi tiếp nối nhìn lên bầu trời, nhìn ra ngõ trúc rồi lại quay trở lại với ao thu, với chiếc thuyền câu. từ một khung ao bé xíu, khoảng không mùa chiếm lĩnh được lan rộng ra nhiều hướng thật nhộn nhịp, gần cận đến chân thực, nhưng vẫn không mất đi nét trẻ đẹp sắc sảo.
Ở câu thơ đầu, không gian của mùa chiếm hữu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật. Nhà thơ không ban đầu bằng việc tả phong cảnh ngày thu qua màu sắc như bình thường, mà ông vẽ các nét đầu cho bức họa đồ thu bằng các nét chấm phá mơ hồ từ không khí thu rất dịu nhẹ, pha chút lạnh se se:
“Ao thu lạnh mát nước trong veo”
Nước ao “trong veo” tỏa hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm lên toàn bộ cảnh vật bao quanh. Nước ao thu trong vắt, khí thu lành lạnh lại càng tô điểm, khiến nước thu đã trong lại càng trong. Có cảm hứng như bạn có thể nhìn thấy vài chú cá chậm rãi bơi sườn lưng chừng trên các đám rêu xanh mướt dưới đáy ao vậy! Nước ao trong nhờ khí lạnh, khí lại càng thêm lạnh khi kết hợp với sự trong đến lặng của ao thu. Qủa là việc phối kết hợp tuyệt vời!
trên bề mặt của nước ao thu trong như ngọc ấy có thấp thoáng Bức Ảnh một cái thuyền câu bé nhỏ:
“Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chỉ có độc tôn một chiếc thuyền, không chỉ bé mà lại còn là “bé tẻo teo”. Cái ao và chiếc thuyền chính là Bức Ảnh trung tâm của bài thơ, nhưng cũng chính là Hình ảnh bình dị, dân dã nhất nơi thôn quê. người sáng tác không còn đặc tả độ rộng của ao thu, thậm chí khi đọc câu thơ đầu, người đọc có thể liên tưởng rằng ao thu tại đây rất nhỏ, vì theo như nhà thơ từng nhắc đến, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam quê nhà có cơ man nào là ao, vì nhiều ao nên ao nhỏ, ao nhỏ thì Từ đó mà thuyền câu cũng “bé tẻo teo”. Nhưng đọc câu thơ thứ hai, đùng một cái ta có cảm giác ao thu như rộng hơn lên, chính cái bé xíu đến “tẻo teo” của thuyền câu lại càng để cho ao thu nhỏ nhắn có thể trở nên bao la biết mấy. Hai câu thơ đầu với những từ ngữ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” khắc họa đường nét, dáng hình, sắc tố của cảnh vật, của nước mùa thu 1 cách tinh tế. Cách gieo vần “eo” trong mô tả không chỉ là làm tăng mức độ thanh lặng, quạnh vắng của cảnh vật, mà còn tạo cho nhịp thơ âm vang như là tiếng thu, như thể hồn thu vọng về.
nếu mà hai câu thơ đầu là các nét chấm phá phác họa bức họa ngày thu thì đến hai câu thơ sau, nhà thơ thường xuyên dùng ngòi bút tài ba, vẽ lên một bức tranh nước mặc đẹp đến thanh bình:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo”
Màu “biếc” của sóng nước hòa phù hợp với màu “vàng” của lá đã khắc lên bức họa đồ quê đơn sơ đấy mà không thua kém phần lung linh. thẩm mỹ và nghệ thuật đối trong phần thực quả thực rất điêu luyện, “lá vàng” so với “sóng biếc”; vận tốc “vèo” của lá bay tướng ứng với khoảng độ “tí” của sóng gợn. ở cả 2 câu đề, tất cả chúng ta đã thấy được độ trong của nước, nhưng đến đây, ta phân biệt nước thu không chỉ trong mà còn rất xanh, xanh trong đến độ “biếc” như là ánh lên màu lấp lánh lung linh như ngọc vậy!. Gió thu trong thơ Nguyễn Khuyến cũng rất độc đáo, Chưa hẳn nhè nhẹ thổi theo khí se lạnh và lại đủ mạnh để cuốn lá “đưa vèo”. tưởng như nghịch lý nhưng lại rất hợp lý với cảnh sắc đang rất được biểu đạt ở phần trên.
Hai câu luận liên tiếp mở rộng không gian mùa thu qua miêu tả của nhà thơ. bức tranh thu có thêm chiều cao của khung trời nhuộm màu “xanh ngắt” với các tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ:
“Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Dường như trời thu trong thơ của Nguyễn Khuyến luôn có màu xanh lá cây, mà còn là một màu “xanh ngắt”:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu Vịnh”
hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong “Thu ẩm”.
Màu “xanh ngắt” là không chỉ có sắc xanh mà còn tồn tại cả chiều sâu, so với trời thu, trong veo là không chỉ xanh mà còn trong, tạo cảm xúc bầu trời trở nên cao và rộng. Trời thu trong xanh, bao la một màu thăm thẳm gợi ra cái sâu, cái lặng của không gian,cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá trên chiếc thuyền “ bé tẻo teo”. Thế rồi ông lão ấy lơ đãng nhìn ra bốn phía làng quê, đùng một phát nhận thấy không chỉ là khung trời trên cao hay mặt nước phía bên dưới, thậm chí ngay cả khoảng không bao quanh cũng bị tĩnh mịch, im lặng đến phẳng lặng, thậm chí đến đơn độc. cô đơn khi thấy bao quanh không một bóng người, xóm thôn im re, con phố nhỏ phía trước chỉ có mấy khóm trúc khẽ đưa trong gió nhẹ, ngõ vắng quanh co lại càng thêm im lìm. Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang ngập trong giấc mộng tĩnh lặng của mùa thu, tất cả cảnh vật đều làm cho cảm xúc bâng khuâng, man mác nhưng không vì thế mà trở nên không quen, trái lại rất thanh bình, thân cận đúng chất làng quê VN.
Khung cảnh ấy càng có thể trở nên thôn dã, giản dị khi xuất hiện rõ rệt Tấm hình cả một người ngồi trên thuyền câu cá ở cả 2 câu kết:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Tư thế “tựa gối ôm cần” có mặt trong thơ Nguyễn Khuyến là một trong những Bức Ảnh đẹp, đẹp đến bình dị. hợp lý và phải chăng đó là tâm thế nhàn của 1 thi sĩ đã ra khỏi vòng danh lợi.? Bức Ảnh con người xuất hiện liên đới với tư thế bó gối càng tô điểm cho bức họa thu thêm nhộn nhịp.Tuy nhiên, nhà thơ ngồi câu cá đấy và lại chẳng chú tâm tới việc câu , chẳng vậy mà lại bị giật mình trước tiếng “cá đớp động dưới chân bèo”. hợp lý nhà thơ còn mải thả hồn thi sĩ nhìn ngắm trời xanh, còn ngắm làn nước hơi gợn tí, đưa mắt nhìn lá vàng trước gió khẽ đưa vèo, rồi lại bất chợt vu vơ buồn trước ngõ trúc vặng lạnh quanh co nên mới bị giật mình trước thanh âm nhỏ nhắn ấy? khoảng không hẳn phải yên tĩnh lắm, con tim hẳn phải trong trẻo, ngọt ngào và lắng đọng lắm mới hoàn toàn có thể nghe, rất có thể cảm thứ âm thanh như vậy! tuy nhiên, dù cho có có mặt âm thanh nhưng không gian mùa thu vẫn hoàn toàn yên tĩnh, vì quá tĩnh nên mới nghe thấy thứ âm thanh mỏng tanh & nhẹ như thế, nghe được cả tiếng lá rơi, tiếng cá động mà vẫn thấy tĩnh, đó mới chính là cái tài trong nghệ thuật lấy động tả tĩnh của hồn thơ quê Nguyễn Khuyến.
đến hơn cả sự bất ngờ đột ngột trước âm thanh cá đớp động chân bèo của Nguyễn Khuyến cũng khá lạ, rất hay. Hay tại đoạn nhà thơ sử dụng từ “cá đâu”. “Cá đâu” là cách hỏi vừa làm nên mơ hồ trong không gian vừa gợi ra sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ Dường như nhất thời mất đi cảm nhận về khoảng không thực tại mà chìm đắm trong khoảng không suy tưởng nên không thể lập tức định vị được hướng tạo ra tiếng động dù rằng đang ở phía trong một cái ao rất nhỏ. Tại Sao ư? Vì nhà thơ câu cá mà không hẳn để bắt cá! Câu cá chỉ là cái cớ để tìm sự tư thái trong thâm tâm hồn, để tĩnh tâm, để lôi kéo hết hương sắc ngày thu vào trái tim nhạy cảm của người thi sĩ. Vậy mới nói bài thơ không hẳn kể chuyện câu cá vào ngày thu mà chính là mượn việc câu cá để tả trời thu, để khen ngợi trời thu.
Trước Nguyễn Khuyến có nhiều thi sĩ viết về mùa thu,sau Nguyễn Khuyến thơ hay viết về ngày thu cũng không hẳn là không tồn tại, dẫu thế, “Thu Điếu” vẫn luôn mang 1 sắc thu riêng, không lẫn lộn. Cảnh thu trong bài thơ là cảnh đẹp nhưng yên bình và buồn, không gian tĩnh mịch nhưng không tạo cảm hứng cô độc, sầu não. trái lại, còn nhờ đó mà lộ diện một bức họa đồ sống động đẹp lung linh về làng quê cổ nước ta, thân thuộc, rất thanh bình.
Bài phân tích 17
Thu trong thơ Nguyễn Khuyến tiêu biểu cho ngày thu ở đồng bằng Bắc Bộ. Thu trong thơ ông thật êm đềm, đơn sơ nhưng vô cùng sống động, làm say đắm lòng người. Trong chùm thơ về mùa thu của ông bài Thu điếu để lại nhiều ấn tượng trong trái tim người đọc.
ngày thu là mùa đẹp tuyệt vời nhất trong năm của vùng đồng bằng Bắc Bộ, hòa cùng vào cảnh vật con người cũng biểu hiện nỗi niềm cảm hứng của bản thân mình. Đọc Thu điếuchúng ta sẽ cảm nhận được sắc đẹp của cảnh thu và tâm trạng của nhà thơ. nếu như ở Thu Vịnh, cảnh thu đựơc tiếp nhận từ cao, xa đến gần, rồi gần đến cao, xa thì ở Thu Điếu cảnh chiếm hữu được tiếp nhận từ gần đến cao – xa rồi từ cao xa quay về gần. Điểm nhìn cảnh thu được nhìn từ chiếc thuyền câu đến mặt ao rồi nhìn lên khung trời, nhìn tới ngõ trúc rồi ngó ra mặt ao. Từ khung ao hẹp tác giả diễn tả mùa thu đựơc cả khoảng không & thời gian cảnh sắc ngày thu xuất hiện nhiều hướng thật nhộn nhịp.
Ngay từ tiêu đề của bài, tác giả đã muốn reviews đến người đọc về cảnh câu cá mùa thu, nhưng thực tế đó lại là thì thầm mùa thu, biểu đạt cảnh ngày thu của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, quê nhà của tác giả Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ có ao thu, thuyền câu, có lá vàng, có tầng mây, có sóng, có cá và người câu cá. khoảng không mùa thu, tĩnh mịch và chính sự vắng lặng này mới tả được khoảnh khắc lặng lẽ của ngày thu & tả được tâm trạng, tĩnh lặng của tác giả.
Ao thu lạnh buốt nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Ngay từ câu thơ đầu tác giả đã cho những người đọc tưởng tượng một khoảng không thu buồn nhưng đẹp, một không gian tĩnh lặng không phải ở vùng quê nào cũng giành được. Hai câu thơ này không những diễn đạt được cả không gian ngày thu (ao thu) mà còn diễn tả được cả thời hạn của mùa thu. Mùa chiếm được bộc lộ ở làn nước trong xanh, đã trong lại còn trong xanh và thêm lạnh giá. Ao thu lạnh giá càng làm gia tăng độ buồn của ngày thu. đó là mùa thu của lòng của lòng người buồn, của thi nhân buồn mà thôi. ngày thu thường là mùa của tâm trạng buồn, qua hai câu thơ này càng thấy Nguyễn Khuyến đã rất tài tình khi miêu tả khung cảnh ngày thu. Chiếc thuyền câu vốn đã bé lại càng bé tẻo teo. Hai vầng eo càng để cho không gian càng thêm thu nhỏ lại.
làn nước xanh ngắt, nhưng lại nóng bức hai sự phối kết hợp đó đã khiến cho không gian tại đây có phần mông lung và như tan ra cùng với sự lanh tanh của ao ngày thu. ngày thu nước ao mới trong xanh như vậy để cho không gian thêm nhỏ, chiếc thuyền đã bé lại bé thêm, như thu mình thêm nhỏ lại.
Trong không gian tĩnh mịch êm ả dịu dàng đó, mọi khoảng không cảnh vật như hòa vào nhau, làm mọi cảnh vật đều gợi cho ta xúc cảm buồn.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Phải bảo rằng, con mắt nhà thơ phải thật tinh tế và sắc sảo mới rất có thể nhìn được & cảm nhận được sự vận động rất nhỏ của cảnh vật, sóng chỉ hơi gợi, gió tại đây rất nhẹ chỉ tạo đủ độ để sóng gợn mà thôi. Khung cảnh mùa thu đượm buồn như im lìm, âm thầm lặng lẽ, chỉ có chiếc lá khẽ đưa mà thôi, không tạo nên âm thanh từ khẽ diễn tả được cả âm thanh, chính là âm thanh, đó là âm thanh, tĩnh chứ không động, tả được cái trạng thái tĩnh lặng của ngày thu. Ngày cả từ vèo cũng vậy đó không chỉ bay qua của chiếc lá khi có làn gió mà từ vèo đó còn được xem là biểu hiện tâm trạng, thời thế của nhà thơ, một tâm sự đầy đau buồn trước tình hình của đất nước đầy đau thương.
không chỉ có tạm dừng ở việc biểu đạt cảnh ao thu, bằng con mắt sắc sảo của bản thân, tác giả diễn tả rộng ra chính là cảnh trời ngày thu. phong cảnh trời người sáng tác diễn đạt rộng ra chính là cảnh mặt trời mùa thu. phong cảnh trời mùa sở hữu được nhìn rộng ra từ mặt ao, từ khung cảnh rộng đó tác giả nhìn xa:
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Khung cảnh trời thu thật đẹp, mây lơ lửng trôi trên nền trời trong veo, có điều đám mây dường như buồn, không hề muốn trôi. ở đây từ lơ lửng đó còn được xem là tâm trạng suy nghĩ của tác giả về một vấn đề nào đó chưa ra quyết định rõ rệt. Từ trời thu người sáng tác nhìn xuống, nhìn xa ngõ trúc. không gian lại trở nên tĩnh mịch buồn thảm không những thế việc khách vắng teo lại càng làm ngày càng tăng không khí của ngày thu. Cái im lặng, không khí buồn của mùa thu không tạm dừng ở khoảng không của cái ao mà nó còn lan tỏa khắp trời đất, mây thì lơ lửng không buồn trôi. Ngõ xóm trước kia đông đúc người qua lại là vậy mà giờ đây cũng vắng teo. tuyến đường cũng trở nên quanh co. tất cả mọi vật đều lạng lẽ trong khung cảnh mùa thu.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
cuối cùng thì Tấm hình người câu cá cũng luôn có. trải qua vài nét mô tả việc tựa gối câu cá, thì Tấm hình ông già ngồi câu cá mới hiện lên rõ nét. Tư thế có mặt của ông già câu cá tương tự như cảnh vật trở nên buồn, ông không ngồi trong thế của người câu cá mà gò bó tựa gối. Ta thường biết khi câu cá con người ta cảm nhận thấy thoải mái nhất thì tại chỗ này ông già ngôi câu cá chưa được sự thoải mái, thanh thản cúi người và tựa mặt lên đầu gối giống như là đang tâm lý một điều gì. Đó hợp lý cũng là người sáng tác đang trăn trở buồn rầu về thế sự.
có vẻ như ông già câu cá ngồi câu cho có niềm vui, chứ không thấy bóng dáng của chú cá thì ngồi câu cũng đâu được gì. Sự chờ đón của ông già câu cá đó cũng chính là một sự mòn, về sự im re, trống không. Một tiếng động quậy nhẹ của con cá dưới chân bèo. Nhưng tiếng động này cũng nhẹ, một tiếng động lẻ loi, lại càng làm ngày càng tăng sự vắng vẻ âm thầm lặng lẽ của khoảng không ngày thu. Ở câu cuối sử dụng ba âm đ ( đâu, đớp, động) ta xúc cảm như động mà lại không động, chỉ đủ mô tả đủ sự quẫy đuôi nhẹ của con cá.
nói cách khác khung cảnh mùa thu trong Thu điếu thật tĩnh lặng, êm ả dịu dàng, nhưng buồn. Khung cảnh đó càng gợi cho những người ta tâm trí chiêm nghiệm về cuộc sống thường ngày. Một sự vận động đều nhẹ dịu, rất khẽ sự tĩnh mịch đó lại tạo thêm sự yên bình của cảnh. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ cái động rất nhẹ. thủ thuật lấy động tả tĩnh là mẹo nhỏ rất gần gũi của thơ cổ phương Đông.
người sáng tác đã dùng thủ pháp gieo vần theo vần eo trong bài, để làm ra tĩnh mịch im lìm trong khung cảnh mùa thu gợi lên cái gì thu hẹp lại, nhỏ lại, lắng vào hư không nó cũng đóng góp phần để cho không khí im lặng được gia tăng.
Bằng sự cảm nhận tinh tế của tác giả về ngày thu, ta cảm nhận được ở tác giả một tâm hồn gắn bó thiết tha với vạn vật thiên nhiên, 1 tấm lòng yêu nước thầm kín. Nhà thơ đã vẽ lên một ngày thu giản dị, thanh đạm, đơn sơ, nhưng đẹp của làng quê việt nam.
Bài nghiên cứu 18
Nguyễn Khuyến là nhà thơ trữ tình lớn của văn học nước ta cuối thế kỉ XIX đầu XX. những tác phẩm của ông chủ yếu biểu lộ tấm lòng ưu tiên với dân, với nước của người học thức & cảm tình gắn bó với con người nơi làng quê VN.Bài thơ “Câu cá mùa thu” là 1 trong những tác phẩm như vậy. Lấy cảm hứng từ đề tài mùa thu rất gần gũi, bài thơ đã vẽ nên một bức họa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ, qua đó thể hiện tấm lòng của thi nhân.
Bài thơ “Câu cá mùa thu” nằm ở trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến. tác phẩm đã vẽ nên một bức tranh về một chốn thu thanh sơ mang đặc trưng của ngày thu nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. khuất phía sau đó là nỗi niềm tâm sự thầm kín của 1 hồn thu thanh cao.
Trước hết, bài thơ xuất hiện bằng Tấm hình ao thu:
“Ao thu nóng sốt nước trong veo
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.
Bức Ảnh chiếc “ao thu” gợi không gian gian rất gần gũi, thân cận nơi làng quê xứ Bắc. Từ láy “lạnh lẽo” kết phù hợp với tính từ “trong veo” khiến Tấm hình ao thu mang đầy chất thơ. Tạm quên đi những cơn mưa rào xối xả của mùa hạ, ao thu Hình như thấm đẫm cái lạnh se sắt của gió heo may, lắng đến độ như được lọc, trong veo đến tận đáy. Trong khoảng không của trời thu, nắng thu, gió thu ấy, ta phát hiện Hình ảnh “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Số từ “một” gợi sự đơn độc, ít ỏi , giữa ao thu, chỉ có độc nhất một cái thuyền câu bé bỏng. Từ láy “tẻo teo” gợi sự nhỏ nhắn , xinh xắn cùng cách gieo vần “eo” tài hoa không chỉ là đem về cái hồn của cảnh vật mà còn đem đến cảm giác yên bình một cách lạ lùng. Bằng bút pháp chấm phá, nhà thơ đã phác họa một khoảng không gian ngày thu trong sáng, gần gũi và tĩnh lặng. sát bên không gian gian mùa thu trong trẻo, nhà thơ còn mô tả mùa thu bằng các nét vẽ đầy tinh tế và sắc sảo, tràn trề sắc tố & âm thanh:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.
khoảng không mùa thu có vẻ như có sự chuyển động tinh tế và sắc sảo từ gần vươn ra tới cao, xa rồi lại hội tụ về gần. Sự biến đổi điểm nhìn không những đem đến ánh mắt đa chiều cho cảnh vật mà sự hoạt động từ “ao thu” rồi quay về “ao thu” khiến cả đất trời như thu lại, nép mình trong chiếc ao nhỏ xíu. lân cận ao thu, thuyền câu, lúc này xuất hiện thêm “sóng biếc”, “lá vàng”, “tầng mấy”, “ngõ trúc”. Mỗi một sự vật làm nên một nét thu mềm mại, uyển chuyển mà thanh thoát, một dáng thu ý nhị mà mộc mạc. bức họa đồ thu ấy còn hiện lên trong sự hòa phối giữa sắc xanh & vàng mà nổi bật hơn là ở những “điệu xanh”: “xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh trời”. không gian phủ kín màu xanh da trời, chỉ có duy nhất sắc vàng của chiếc lá thu rơi. không chỉ biểu đạt màu sắc thu, Nguyễn Khuyến còn cảm nhận được tiếng thu, bước thu. Tiếng thu là tiếng sóng gợn nơi ao lạnh, là tiếng gió hiu hắt đâu đây trên cành trúc, đặc biệt là tiếng lá vàng rơi nghiêng “khẽ đưa vèo”. Khắp khoảng không cũng là những hoạt động chậm rãi, nhẹ nhàng, rất khẽ, rất êm. những Bức Ảnh trong bức tranh thu ấy không tồn tại chút dấu vết nào của công thức, ước lệ, mà gần cận, rất gần gũi, trong trẻo, thanh sơ, mang đậm hồn thơ xứ sở.
nếu như ở sáu câu thơ đầu, người đọc cảm nhận được 1 cảnh thu có hồn, xanh ngắt nhưng không âm thầm lặng lẽ, các Tấm hình, cụ thể gần gũi, thân thuộc, thì ở hai câu thơ cuối, bức họa thu lại mang nỗi niềm tâm sự thầm kín:
“Tựa gối buông cần câu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Bài thơ có nhan đề là “Câu cá mùa thu” nhưng phải đến hai câu cuối nhân vật trữ tình mới xuất hiện. Trong dáng người yên bình, “tựa gối buông cần”, hợp lý người đi câu muốn thu mình lại để ngập trong nhưng tâm trí riêng. Từ “đâu” rất có thể hiểu là đâu đó hoặc đâu có. Nhưng dù hiểu Theo phong cách nào thì có lẽ rằng người đi câu không còn chú tâm đến việc câu cá. Nhưng dù cho là đâu có tiếng cá đớp động hay cái giật mình thảng thốt khi đâu đó có tiếng cá đớp động thì bài thơ cũng chứng tỏ với Nguyễn Khuyến đi câu chỉ là cái cớ để ông gửi gắm nỗi niềm tâm sự. chắc rằng, không riêng gì mỗi ở “Thu điếu” mà nằm ở trong chùm ba bài thơ thu của chính bản thân mình, Nguyễn Khuyến đều gửi gắm những tâm sự riêng. Như trong “Thu vịnh”, để nói lên nỗi niềm ưu thời, mẫn thế, ông đã trăn trở rằng:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”.
Nỗi thẹn với Đào Tiềm cũng là nỗi thẹn của nhà thơ với dân, với nước và với chính bản thân. Gửi trong bức họa thu là một trong những nỗi lòng chưa một tích tắc bình yên. Dù chìm vào chốn bình yên nhưng Nguyễn Khuyến vẫn trăn trở với thời cuộc, qua đó kín đáo bộc lộ tâm sự yêu nước.
Về thẩm mỹ, bài thơ sử dụng thể thất ngôn bát cú đường luật với những thủ thuật quen thuộc như chấm phá, lấy động tả tĩnh. hệ thống từ láy giàu hình tượng, các Hình ảnh gần gũi, chân thật, sắc sảo. đặc biệt quan trọng, thẩm mỹ gieo vần “eo” đã bộc lộ có tài bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Nhờ vậy, bức họa đồ thu hiện lên vừa rất gần gũi, vừa lạ, vừa chân thực, khác biệt. Về nội dung, bài thơ trước hết đã vẽ nên một bức họa đồ thu mang đặc trưng của mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ. ngoài ra, bài thơ đã biểu hiện tâm hồn đáng quý của thi nhân: là một trong những con người yêu vạn vật thiên nhiên, yêu đất nước tha thiết.
Qua bài thơ “Câu cá mùa thu”, Nguyễn Khuyến đã góp thêm vào kho tàng thơ thu một bức tranh vừa rất gần gũi, vừa rất dị. & có lẽ rằng, ông trọn vẹn xứng danh với thương hiệu là “Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Sâu trong 1 con tim nhạy cảm với thiên nhiên là tấm lòng yêu nước nồng dịu, luôn lo nghĩ cho dân, cho nước.
Bài phân tích 19
Thơ vốn dĩ là sự cách điệu của tâm hồn. Trong thơ có phong cảnh mây trời, có bóng dáng của vạn vật thiên nhiên. Cũng bởi thế mà thiên nhiên luôn là người bạn sát cánh đồng hành nâng niu những cảm hứng của thi nhân. Vòng thời gian vận chuyển bốn ngày xuân hạ thu đông. cảnh sắc mỗi mùa đều có những nét xin xắn riêng.
Nếu nói tới ngày xuân ta nghĩ tới các câu thơ.
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một số bông hoa…”
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
ngày hè tươi mát tràn trề sức sinh sống trong thơ Nguyễn Trãi:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
(Nguyễn Trãi – Cảnh ngày hè)
Thì nhắc đến ngày thu, ta nghĩ ngay đến chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. Trong ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm, bài thơ đặc trưng nhất cho khung cảnh vạn vật thiên nhiên mùa thu Bắc bộ chính là Thu điếu. Khung cảnh hiện lên với những nét đặc thù riêng lẻ của ngày thu. vẫn là những đường nét quen thuộc nhưng trong số đó còn chứa đựng biết bao nỗi niềm của thi nhân.
Nguyễn Khuyến sinh vào năm 1835 mất năm 1909. Nguyễn Khuyến hiệu là Quế Sơn, sinh tại Nam Định nhưng lớn lên & sống đa số ở xã Yên Đổ, huyện Lục Bình, tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong một mái ấm gia đình nhà nho nghèo. tên thường gọi Tam Nguyên Yên Đổ khởi nguồn từ việc ông đỗ đầu cả ba kỳ thi từ năm 1864 đến năm 1871.
Tuy đỗ đạt cao, nặng lòng với non sông nhưng ông chỉ làm quan 10 năm. tiếp nối, ông cáo quan về quê dạy học và sống thanh bạch. Việc ông cáo quan không có nghĩa là ông không yêu nước. Trong hoàn cảnh xã hội loạn lạc và không mong muốn bắt tay hợp tác với tổ chức chính quyền thực dân Pháp nên cách duy nhất ông có thể làm là cáo quan để giữ gìn con tim thanh cao.
Nhắc về Nguyễn Khuyến người ta nhớ đến những sáng tác thơ Nôm của ông. không chỉ có châm biếm đả kích thực trạng cộng đồng, ông còn viết ít nhiều về khung cảnh làng quê thanh bình…
Bài thơ Thu điếu thuộc thể loại thất ngôn bát cú Đường luật. Ở bài thơ người đọc sẽ bắt gặp khung cảnh rất gần gũi của làng quê Bắc bộ khi mùa thu đến. Bài thơ là khúc nhạc lòng của người sáng tác. đó là tình yêu vạn vật thiên nhiên, là nỗi lòng ưu thời mẫn thế của thi nhân…
mở đầu bài thơ là khung cảnh rất gần gũi với ao thu nước thu:
“Ao thu nóng sốt nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Điểm nhìn của thi nhân không ở khung cảnh to lớn bao la mà tầm mắt chỉ thu hẹp lại trong không gian “ao thu” đến điểm đứng “thuyền câu”. Sự thu hẹp của không gian của góc nhìn cũng có vẻ như đó là sự thu mình của tác giả.
đi vào thơ văn ta thường nhìn thấy Bức Ảnh thân quen của sông, của biển lớn. Nhưng Nguyễn Khuyến lại lựa chọn 1 Hình ảnh đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ – ao. nghiên cứu bài thơ Thu điếu sẽ phát hiện đặc thù của ao ấy được gợi tả thông qua từ láy “lạnh lẽo”. Cái khí trời mùa thu se se lạnh ấy thấm xuyên vào vạn vật tạo thành một sự mát rượi không chỉ có ở cảnh vật mà còn là lòng người.
Nhà thơ sử dụng từ “trong veo” vừa gợi được sắc nước, lại vừa gợi được sắc trời khi vào thu. Nước thu và trời thu thật khó tách bạch. Mặt nước bây giờ như tấm gương soi chiếu cả trời thu vào ấy. Tấm hình này gợi cho ta liên tưởng đến câu thơ của Đỗ Phủ
“Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm”
(Thu hứng – Đỗ Phủ)
vẫn chính là trời thu nước thu và không khí mát mẻ của mùa thu nhưng ở Nguyễn Khuyến khung cảnh có phần đơn sơ hơn bởi lẽ đó là cái mộc mạc của làng quê. Còn ở bức tranh thu của Đỗ Phủ ta cảm nhận được chút nào đấy như uất hận, cay đắng.
Nếu ở câu thơ đầu Nguyễn Khuyến đã lộ diện khoảng không ngày thu thì ở câu thơ tiếp sau ngày thu ấy lại hiện ra với việc bé bỏng đơn côi của con người. “Một chiếc thuyền câu” có lẽ đó là chỗ tựa của nhà thơ. Từ không gian ao đã thu hẹp lại thành “thuyền câu”. & Tấm hình chiếc thuyền ngày càng nhỏ bé nhiều hơn bởi sự phối kết hợp “bé tẻo teo”.
Ao thu đã nhỏ nhưng chiếc thuyền câu ấy so với ao thu thì càng bé thêm hơn chỉ như một chấm nhỏ mà thôi. chính vì sự thu mình ấy khiến ta có 1 xúc cảm đơn độc đến rợn ngợp. khoảng không như thấm đẫm nỗi buồn. nghiên cứu bài thơ Thu điếu sẽ thấy trong cái mát mẻ ấy người ta cần tìm một hơi ấm nhưng tại chỗ này chẳng có ai một sự vắng ngắt đến nao lòng. Đó không chỉ có cảnh thiên nhiên thông thường mà là cảnh thiên nhiên được nhìn qua hai con mắt của 1 người mang nặng tâm tư.
Khung cảnh mùa thu càng hiện lên rõ rệt hơn
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
blue color của nước cũng là màu xanh lá cây của mây trời. Sự chuyển động của sóng nước chỉ tạm dừng “theo làn hơi gợn tí”. Từng con sóng nhỏ lăng tăng nối đuôi nhau. không chỉ sóng nước mà qua đó ta còn cảm nhận được sự chuyển động của gió. Từng cơn gió thoảng qua làm mặt nước xao động. Có sự vận động nhưng khoảng không không tươi sáng rộn rã và lại càng chìm sâu vào lặng im. Trong sự lặng im ấy, ta tưởng như rất có thể nghe thấy hơi thở của đất trời.
và Nguyễn Khuyến trong sự thanh vắng ấy đã nghe được 1 thanh âm vô cùng sắc sảo của tiếng lá “khẽ đưa vèo”. Lá vàng vốn là một dấu hiệu phân biệt đặc trưng của mùa thu “ngô đồng nhất diệp lạc thiên hạ cộng tri thu”. vì vậy nói tới ngày thu thi nhân thường luôn viết về lá vàng. không chỉ có trong trung đại mà còn cả trong văn học tân tiến
“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi vàng rơi thu mênh mông…”
(Bích Khê)
Thi sĩ Xuân Diệu cũng từng ngỡ ngàng thơ mộng:
“Đây mùa thu tới ngày thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
(Xuân Diệu)
& khi phân tích bài thơ Thu điếu sẽ thấy Nguyễn Khuyến cũng như vậy. dẫu thế lá vàng mà ông khắc họa lại ẩn chứa cả một nỗi niềm. “Đưa vèo” chính là một vận động nhanh và đầy dứt khoát. Từ “vèo” không chỉ gợi được sự vận động mà còn gợi được dáng vẻ của vật thể hoạt động – mỏng tanh, dẹt, nhẹ. Âm thanh ấy gợi được cái sự yên tĩnh tuyệt vời nhất.
mặc dù vậy, để có thể lắng nghe được âm thanh ấy hẳn Nguyễn Khuyến phải là một người sắc sảo. sau này, Trần Đăng Khoa cũng từng nghe được âm thanh của chiếc lá rơi “Tiếng rơi rất khẽ/ như thể rơi nghiêng”. Nhưng không dựng chân lại tại đó, chiếc lá “đưa vèo” còn gợi ra sự biến đổi của thời thế cục diện quốc gia. toàn bộ ra mắt quá nhanh.
và trước sự chảy trôi, sự biến hóa ấy, ông chỉ hoàn toàn có thể ngậm ngùi bất lực mà gật đầu đồng ý. Từ cái nhìn bao quát chuyển hẳn sang cái nhìn cận cảnh. ở cả hai câu thực đó, Nguyễn Khuyến chuyển sang nhìn điểm, cụ thể chi tiết. ở cả hai câu thực là 1 trong bức tranh thu với sắc xanh hài hòa và hợp lý cùng sắc vàng. greed color của sóng nước là phông nền để trông rất nổi bật cho gold color của lá thu. Gió đưa, sóng gợn, lá bay các chuyển động ấy Hình như cũng khẽ hơn để không phá tan sự yên tĩnh của vạn vật thiên nhiên.
khoảng không từ rộng đến hẹp, tầm nhìn cũng biến đổi từ khái quát đến cận cảnh & hiện giờ góc nhìn ấy hướng lên trời xanh
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Cái vắng lạnh của ngày thu đã lan tỏa khắp đất trời. Từ láy “lơ lửng” đã diễn tả thành công cái trạng thái nửa như muốn trôi nửa như còn đang luyến tiếc điều nào đấy của các đám mây. điều đó khiến ta có cảm tưởng đám mây như đang đứng yên. “Trời xanh ngắt” cũng được xem là một Tấm hình đặc trưng của mùa thu. màu xanh lá cây có vẻ như đã đạt đến cực độ. Sự kết hợp ấy đã khiến cho khung trời như cao hơn nữa rộng hơn. không gian cũng chính vì vậy mà được lan rộng ra ra đến rất chi là.
Từ cái nhìn hướng lên trên, thi nhân chóng vánh chuyển xuống mặt đất để thấy “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Đường làng Bắc Bộ với những bụi tre bụi trúc thông liền nhau hiện lên. Khi nghiên cứu và phân tích bài thơ Thu điếu sẽ phát hiện con người được nói tới thông qua Tấm hình “khách vắng teo”. khoảng không chìm vào sự im vắng. Chờ người nhưng người nào đến. Nguyễn Khuyến đang mong chờ điều gì chăng?
Đến hai câu kết nhân vật trữ tình mới hiện ra rõ nét
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Tư thế của nhân vật trữ tình là tư thế dáng vẻ của 1 ông câu “tựa gối buông cần”. Tấm hình một ông già ngồi câu cá gợi ra một sự thanh cao, thoát tục, thanh nhàn. tuy vậy sự thanh nhàn ấy chợt bị khuấy động. Mọi thứ ra mắt “lâu chẳng được”, chỉ trong 1 không quá lâu. Tấm lòng ấy Dường như chỉ yên tĩnh trong vài phút ngắn ngủi. thời gian này cân xứng với cái “khẽ đưa vèo” của lá vàng ở câu thơ trên.
Hình như thoáng một chút ít hờn dỗi bởi sự yên tĩnh bị cắt ngang. Nguyên Nhân dẫn đến sự xao động ấy chính âm thanh “đớp động”. “Đâu” rất có thể được hiểu là từ phủ định cũng đều có thể là đại từ phiếm chỉ. Trong dòng thơ này, ta nên hiểu “đâu” là đại từ phiếm chỉ. Tiếng cá vang lên từ chỗ nào không định vị được. Một thanh âm mơ hồ từ nơi xa vắng nào vang lên lại khuấy động cả 1 mặt hồ yên bình và khuấy động con tim thi nhân.
nghiên cứu và phân tích bài thơ Thu điếu thì hoàn toàn có thể thấy, ý của bài thơ là nói về sự việc đi câu nhưng Hình như đi câu so với Nguyễn Khuyến chỉ là cái cớ. một chiếc cớ để ông thu vào khoảng mắt cảnh vạn vật thiên nhiên đất trời vào thu. một chiếc cớ để ông có những tích tắc tĩnh tại suy nghĩ về thời cuộc. chính là lí do mà đi câu nhưng tâm hồn của ông không giành cho việc câu cá. Dùng Tấm hình ông câu nhưng trong bài Thu điếu con người lại hiện ra đầy tâm sự không phải như Bức Ảnh ông câu trong bài Ngư nhàn của Không Lộ thiền sư
“Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền.”
(Ngư nhàn – Không Lộ thiền sư)
dù là vẻ thư thả nhưng thực chất tâm hồn ông không yên tĩnh thanh “nhàn” như Nguyễn Bỉnh Khiêm, mà ông luôn hướng về non sông về nhân dân như Đường Nguyễn Trãi – nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Nên một âm thanh nhỏ của ngoại cảnh cũng ảnh hưởng mạnh bạo đến Nguyễn Khuyến như thế.
nghiên cứu và phân tích bài thơ Thu điếu sẽ thấy từ cái nhìn hướng ngoại, chủ thể trữ tình đã hướng về trong nhìn vào tâm tư nguyện vọng của chính mình để rồi mọi thứ vỡ òa ra trong một khoảnh khắc. hai câu kết tác giả lại một đợt tiếp nhữa sử dụng chiến thắng thẩm mỹ và nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Lấy cái động của việc vật để biểu đạt cái tĩnh của khoảng không cùng theo đó cũng thấy được cái động của con tim. Xa lánh chốn lao xao quyền quý và cao sang nhưng vẫn nặng lòng với giang sơn.
Bài nghiên cứu 20
mùa thu – một sắc đẹp dịu dàng, dịu dàng êm ả làm thanh mát con tim con người, khắc khoải một nỗi niềm tha thiết. Cảnh thu bước vào trang thơ của người nghệ sĩ vừa mang đậm màu cảnh, vừa vặn tình. Trong kho báu văn thơ việt nam, khi nói đến mùa thu, ta không hề không nhắc tới chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã có những lời đánh giá về chùm thơ thu của tác giả: ”Nguyễn Khuyến khét tiếng trong văn học là thơ Nôm. Nức danh nhất là chùm thơ thu. Thu điếu điển hình nổi bật hơn cả cho mùa thu của làng cảnh việt nam.
Một con tim thơ đầy nhạy cảm và cũng thật tinh tế và sắc sảo, một bầu không gian nói mấy cũng không vơi, nhìn vào đâu cũng thấy thơ, cũng có thể có thể bắt vào thơ như Nguyễn Khuyến. Chỉ bằng một vài đường nét, người đọc như hiểu rõ sâu xa được cái tình của thi nhân, sự gắn bó hài hòa và hợp lý với cảnh sắc quê hương:
“Ao thu lạnh mát nước trong xanh,
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.
Điểm nhìn được đón nhận từ gần đến cao xa, từ cao xa quay lại gần. Từ điểm nhìn ấy như mở ra nhiều hướng diễn tả & cảm nhận mùa thu khác nhau. Từ láy ”lạnh lẽo” đặc tả khí lạnh của nước ngày thu, cái lạnh Hình như thấm vào da thịt con người. Nước thu thì trong veo, thi nhân dùng tính từ để biểu thị độ trong của nước, hoàn hảo hóa sự trong sáng và yên bình của mặt nước ao. Cách gieo vần ”eo” đầy khác biệt và ấn tượng, không gian thật chật chội. trung tâm của bức họa đồ thu ấy chính là chiếc thuyền câu ”bé tẻo teo”. Từ chính chiếc thuyền ấy mà ánh nhìn của thi nhân bao quát ra xung quanh và cảm nhận mặt nước ao thu nóng sốt & xanh ngắt đến hết độ. Rồi mùa thu liên tiếp hiện lên:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”.
Sóng biếc thì gợn tí, xa hơn là Bức Ảnh lá vàng ”khẽ đưa vèo” trong gió, cao hơn nữa là không gian gian với khung trời trong xanh. Một bức họa có sự hợp lý với sắc tố thanh nhã, dân dã mang đậm hồn quê. Nguyễn Khuyến đã mở lòng để tiếp nhận cái thần thái rất riêng của mùa thu như thế. Với bút pháp ”vẽ mây nảy trăng”, tả sóng nước gợn tí, lá vàng khẽ đưa vèo đó là nhà thơ đang họa nên gió. Âm thanh ấy không khiến cho cảnh thu thêm náo nhiệt, sinh động mà khiến cho bức tranh trở nên u buồn, có nét thanh sơ hơn.
khoảng không bức họa thu với điểm tô màu ”xanh ngắt” như sợi chỉ xuyên suốt, liên kết chùm thơ thu ba bài của thi nhân, bởi vậy đã biến thành gam màu đặc thù cho hồn thơ thu của Nguyễn Khuyến:
“Trời thu trong veo mấy tầng cao
(Thu vịnh)
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”.
(Thu ẩm)
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.
(Thu điếu)
Tấm hình tầng mây ”lơ lửng” gợi ra Bức Ảnh làn gió thu nhẹ dịu thổi khẽ làm mây không phai mà chỉ lơ lửng, thờ ơ trên bầu trời xanh kia. Trời trong veo là khoảng tầm trời xanh đậm không một gợn mây, vừa gợi ra độ sâu rộng của khoảng không, cũng chính là cái nhìn vời vợi và tâm trạng nhiều uẩn ức, con tim đầy trăn trở của thi nhân. Với hình ảnh:
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.
không có một bóng người qua lại gợi nên một khoảng không thu yên tĩnh đến nữ tính. Câu thơ cuối đã được tác giả khéo léo lồng vào bút pháp cổ xưa ”lấy động tả tĩnh”:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Chính ở chỗ này Hình ảnh con người trực tiếp xuất hiện, với tâm thế thong thả, ra khỏi vòng danh lợi, tư thế thu mình để lánh đời. Tấm hình thi nhân trong vai một ngư ông đối diện với vạn vật thiên nhiên mà như đang trầm ngâm, suy tư. cũng cần phải là 1 khoảng không yên bình tuyệt vời nhất thì mới nghe thấy tiếng cá đớp động như thế. Từ ”đâu” có hai cách hiểu. Theo phong cách hiểu trước tiên là sự phủ định hoàn toàn sự có mặt của con người, cũng không tồn tại âm thanh của tiếng cá, đó là sự chờ đón trong tuyệt vọng tới cả ôm cần tựa gối như bất động. Theo phong cách hiểu thứ hai là ”đâu đó” có âm thanh nhưng mơ hồ và xa vắng. Dù cách hiểu như thế nào thì đi câu cũng chỉ là cái cớ để thi nhân biểu thị nỗi u hoài trong lòng người câu cá. Một luôn hồn luôn lan rộng để cảm nhận cảnh thu, tình thu, yêu nước thầm kín mà không kém sâu sắc. Ta cũng nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du:
bức tranh thu của Nguyễn Khuyến cũng thế, cũng mang nặng các nỗi niềm tâm sự, nỗi u hoài trước thời cuộc đổi thay. Cái se lạnh của mùa thu dường như đã ngấm vào tâm hồn của nhà thơ hay cái lạnh của lòng thi nhân đang rộng phủ ra cảnh vật vậy? mặc dầu ở chốn thôn quê thanh sơ, Nguyễn Khuyến vẫn luôn đau đáu một nỗi quan hoài trực thuộc, bởi ông là 1 người nặng lòng với quê nhà, với nước nhà.
mỗi người nghệ sĩ khi viết văn, làm thơ là để đáp ứng nối tiền mình với nhân loại và sự vật xung quanh, để con tim mình hòa nhịp với tâm hồn của mỗi người. Như đọc một câu thơ hay là ” gặp gỡ một tâm hồn con người”. Chính nỗi u hoài của tác giả đã truyền một nguồn lực mãnh liệt trong tâm hồn mỗi cá nhân đọc, cũng làm nên giá trị cho tuyệt bút muôn đời, tạo cho sức sống lâu bền cho tác phẩm trong dòng thời hạn của nền văn học VN.
Bài nghiên cứu và phân tích 21
Nguyễn Khuyến là một trong nhà thơ khét tiếng, thanh cao và giàu lòng yêu nước của nước ta, ông được ca ngợi là một trong những “ nhà thơ của nhân dân, của xóm làng Việt Nam”. Thơ của Nguyễn Khuyến mang đậm hồn quê Việt. Ông để lại cho đời chùm thơ ca về ngày thu rất rực rỡ, đượm tình quê dạt dào bao gồm Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. trong những số đó, nổi bật rất có thể kể tới bài thơ “ Câu cá mùa thu” hay nói một cách khác là “ Thu điếu”, bài thơ nổi bật cho ngày thu làng cảnh tại việt nam. “ Câu cá mùa thu” là bức họa đồ thiên nhiên ngày thu tại làng quê của Nguyễn Khuyến, cũng là Hình ảnh điển hình nổi bật cho làng quê Việt. Bài thơ bật lên sự yên tĩnh, trong trẻo nhẹ nhàng của bức họa đồ quê.
Thơ mùa thu thường đưa đến cho tất cả chúng ta cảm giác về một chiếc buồn man mác hay sự đơn độc lặng thinh của tất cả con người lẫn cảnh vật. trong số đó đan xen là những hoài niệm, nuối tiếc về một điều gì đó xa xôi của chủ thể trong bài. Mùa thu được Nguyễn Khuyến vẽ lên trong “ Câu cá mùa thu” là mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ, quê hương thương yêu của ông. “ Câu cá ngày thu là bài thơ viết theo thể thơ cổ Thất ngôn bát cú Đường luật”, Nguyễn Khuyến thổi hương sắc ngày thu đẹp đến lạ kỳ của làng quê Việt vào từng dòng thơ, câu cú duyên dáng.
Hai câu đầu bài thơ mô tả về không gian cảnh thu trong trẻo, được Nguyễn Khuyến chọn để tập kết biểu đạt, chính là chiếc ao thu cùng chiếc thuyền câu. ngày thu ở “ Câu cá mùa thu” khác biệt so với cảnh trời thu mênh mông bao la, khoảng không được mô tả trên nhiều tầng phía trên cao như “ Thu vịnh”. Bài thơ không tả cảnh vạn vật thiên nhiên trong khoảng không thiên nhiên trải rộng mà cảnh vật mùa chiếm hữu được diễn tả gói gọn trong chiếc ao thu, các cái ao chuôm nhỏ thường hay có mặt không ít ở vùng quê Nguyễn Khuyến:
“ Ao thu nóng bức nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Ao thu miền quê Bắc Bộ được diễn đạt bằng những từ “ trong xanh, lạnh lẽo”, làn nước thu trong trẻo tưởng chừng như rất có thể nhìn sâu tới từng ngọn rêu, từng hòn sỏi. Ôi, một ngày thu yên lặng, phẳng lặng, nước ở ao âm thầm giữa trời thu, không chút gợn, tỏa hơi “ lạnh lẽo”. Chắc có lẽ tiết trời đã gợn chút xúc cảm se lạnh thời gian thu phân, thu mạt nên cái lạnh mới rất có thể thấm đẫm cả vào thiên nhiên. tác giả chọn một không gian nhỏ là “ ao thu” chứ Chưa hẳn khoảng không to lớn như “ hồ thu”. Dưới những làn khói tiết trời thu bao phủ cảnh vật, nước trong ao đã trong, nay lại càng trong hơn, bật lên sự dịu nhẹ mà thanh thoát của ngày thu. trên bề mặt nước là chiếc thuyền câu thấp thoáng xa xa. một cái thuyền bé tẻo teo, đậu đơn độc một mình giữa ao. Giữa một không gian nhỏ hẹp của chiếc ao làng, chiếc thuyền nhỏ xíu hiện lên nhưng không hề bị lu mờ, lọt thỏm trong cảnh vật mà lại tạo cho một sự phối kết hợp hài hòa và hợp lý, phù hợp, quyện vào nhau đến lạ. Tấm hình ao thu và chiếc thuyền câu là hai Hình ảnh vốn rất đỗi thân quen, biến thành điểm trung tâm của bài thơ. Nguyễn Khuyến đã bộc lộ sự rung cảm của bản thân trước sắc đẹp thanh tịnh riêng lẻ, trước không gian vạn vật thiên nhiên trong tiết thu se lạnh. bằng phương pháp sử dụng các tính từ miêu tả “ lạnh lẽo”, “ trong veo”, “ bé tẻo teo” đã đóng góp phần khiến cho bài thơ tăng điểm nhấn về từng đường nét thanh mảnh, thanh thoát, nhẹ nhàng trong sắc nước trời thu. tới đây, không khí ngày thu hiện lên thật nữ tính. Đầu bài thơ với hai Hình ảnh này, hồn thu Việt như ùa về trong lòng trí, âm vang mùa thu như vọng trong trái tim người đọc.
Hai câu luận
bức họa ngày thu quê Việt được Nguyễn Khuyến liên tục vẽ lên với màu sắc hòa hợp trong hai câu thơ tiếp:
“ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
bức họa đồ tiếp theo tiếp tục hiện lên qua sắc “ biếc” của sóng hòa cùng sắc “ vàng” của lá thu đã lột tả vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc của mùa thu của làng quê. “ Sóng biếc” là từ gợi Bức Ảnh về sắc nước trong xanh trong tiết thu, đó là sắc xanh nhẹ nhàng, thanh thoát. Bức Ảnh “ lá vàng” là Bức Ảnh rất rất gần gũi trong đợt thu, được mô tả nhiều trong thơ ca Việt. người sáng tác đã rất khéo léo trong các việc hết hợp đối từ trong hai câu thực của bài thơ, “ lá vàng- sóng biếc” & “ gợn tí- khẽ đưa vèo”, chuyển động thật êm ái, nhẹ dịu của cảnh vật. không gian mùa thu tĩnh đến cả người sáng tác cảm nhận được những sự vận động mặc dù cho là thấp nhất của cảnh vật, sóng “ gợn tí”, “ lá khẽ đưa”. Với nghệ thuật lấy động để tả tĩnh, người sáng tác đã bật lên chiến thắng về một ngày thu quê Việt với việc tĩnh lặng gần như tuyệt vời và hoàn hảo nhất của cảnh vật vạn vật thiên nhiên, nhưng lại rất mộc mạc, đơn sơ. Không khổ danh là 1 nhà thơ của làng quê nước ta, Nguyễn Khuyến có thể cảm nhận sắc sảo, toàn diện từng chi tiết của cảnh vật, dù cho là những vận động bé nhất.
Hai câu luận tiếp theo
Đến với hai câu luận tiếp theo, hồn quê bình dân của VN có mặt với Bức Ảnh tầng mây, ngõ trúc thân quen, không gian như được mở rộng ra xung quanh hơn :
“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Khung cảnh của bức tranh thôn quê đã được lan rộng ra từ chiều cao của tầng mây thăm thẳm rồi quay trở xuống với cảnh những con ngõ bình dị của xóm làng. người sáng tác phóng tầm mắt của bản thân thăng thiên cao xanh thẳm, cái trời thu trong veo với những áng mây lững lờ trôi. Màu xanh ngắt của trời thu xuất hiện thêm chiều sâu, cái lắng đọng của khoảng không cao vun vút, bát ngát vời vợi. Thế rồi, cảnh vật được chuyển 1 cách nhẹ nhàng về làng quê. Hồn quê được biểu đạt rõ rệt qua Bức Ảnh những con ngõ nhỏ quanh co, các rặng tre, rặng trúc đầu làng. Cảnh vật con ngõ nhỏ yên lặng, vắng lặng, hun hút không một tiếng động, tiếng bước đi của con người. Từ “ vắng teo” càng ngày càng tăng vẻ vắng lặng nơi đây, không một âm thanh tiếng động nào mặc dù là nhỏ nhất, mọi thứ êm đềm, trống vắng. tới đây, cái êm đềm của cảnh vật này lại gợi lên một cảm hứng đôi chút đơn độc, lanh tanh và hiu hắt. Chỉ có một số người câu cá ngồi đây, chìm giữa trời thu, cảnh vật thu, và ngập trong sự tĩnh lặng. Thi sĩ giờ đây đang âm thầm cảm nhận vẻ đẹp của non nước quê hương & mơ màng chìm đắm vào sâu trong cảnh vật bao quanh.
Nguyễn Khuyến đã khép lại bài thơ với hai câu thơ rất hấp dẫn và ý nghĩa, xuất hiện thêm Hình ảnh con người ngồi câu trong tiết thu se lạnh, trong khoảng không yên tĩnh, hiu quạnh:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Đọc tựa đề bài thơ, người đọc gần như người nào cũng sẽ đoán là bài sẽ tả về cảnh câu cá trong đợt thu. mặc dù thế, qua các cặp câu đề, thực, luận cũng chỉ thấy xuất hiện cảnh vạn vật thiên nhiên. Nào là ao thu xanh ngắt im re, nào chiếc thuyền câu bé bỏng, nào là các gợn sóng li ty biếc, các cái lá vàng, tầng mây tới ngõ trúc uốn lượn mà không thấy Hình ảnh người câu cá. thì cho tới hai câu kết, con người, lẽ ra biến thành điểm nóng bài thơ Từ Đầu cũng đã xuất hiện, một Tấm hình con người lặng lẽ ngồi câu cá. trước đó, Nguyễn Khuyến từng làm quan to trong triều nhà Nguyễn, tuy nhiên dù rất thương dân chúng nhưng ông cảm thấy tù túng, bất lực trước thời cuộc, không cam chịu làm ách nô lệ, tay sai cho bọn giặc Pháp xâm lược. vì thế ông đã từ quan về quê sống ẩn dật. Nhà thơ Nguyễn Khuyến lúc này đã ra khỏi vòng xoay của danh lợi, thoát khỏi những điều bất thường của chính sách triều đình, ông về lại nhà sống thư thả, tự tại sống một cuộc sống yên bình giản dị và đơn giản với làng quê. “ Tựa gối ôm cần” miêu tả tư thế thông thả, nhàn rỗi của người câu cá. tác giả dùng từ “ ôm cần” chờ đợi cá cắn câu mà mãi chẳng thấy trong cái vắng lặng của khoảng không chứ không hẳn “ buông cần” cho thấy trước không gian hiu quanh đó, người câu vẫn chưa từ bỏ hay là đang cố lờ đi mọi vật, vẫn có đôi chút luyến lưu, hụt hẫng về một điều gì đấy. hợp lí đó chính là sự gửi gắm các tâm trí, trăn trở, hụt hẫng của nhà thơ về thời cuộc hiện nay, về chính quyền nhu nhược, khiến dân chúng lầm than. Đây đồng thời cũng ám chỉ cho tâm thế nhẹ dịu, an yên của nhà thơ hiện nay, một nhà thơ thanh bạch, giải thoát mình khỏi sự tù túng, sự bất lực trước thời cuộc. Đang nhẹ dịu đắm mình tận hưởng sắc khí trời thu, trong giấc mộng thu mơ màng, người câu cá bỗng giật mình khe khẽ bởi “ Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Tiếng động của cá cắn mồi như phá tan đi sự im lặng của vạn vật thiên nhiên vạn vật giờ đây. đấy là tiếng động duy nhất được Nguyễn Khuyến diễn tả trong bài thơ. Tuy là vậy, nhưng kể từ “ khẽ” vẫn để cho cảnh vật mùa thu tại làng quê hiện lên với việc yên ắng nhưng lại nhẹ dịu, thanh thản. Người câu cá hiện lên với Hình ảnh một con người đang trong tâm trạng đơn độc, lặng lẽ, pha đôi chút man mác buồn, nuối tiếc gì đấy, lân cận vậy là 1 trong con tim thanh bạch, nhẹ nhàng.
Bài thơ mang đậm sang trọng quê nhà vùng đồng bằng Bắc Bộ qua cảm nhận sâu sắc, sắc sảo của người sáng tác Nguyễn Khuyến. nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi sự vắng lặng hoàn hảo nhất của cảnh vật kết hợp với các phép đối câu, gieo vần “ eo”, tác giả giúp bài thơ thổi ra hương sắc thu nổi bật.Cách sử dụng khôn khéo những tính từ, cặp vần có đặc thù ngân vang trong trẻo như lấn sân vào tâm hồn người hâm mộ. người sáng tác đã có những chú ý sắc sảo khi chọn diễn tả các phong cảnh rất đỗi dân dã với làng quê, từ cái ao quê tới chiếc thuyền, từ trời xanh tới các con ngõ uốn lượn, ẩn mình dưới bóng tre, phủ bọc xóm làng. kề bên khoảng không nhỏ hẹp, yên tĩnh đó là tâm trạng chứa bao nỗi uẩn khúc của người sáng tác với thời cuộc bây giờ.
“Câu cá mùa thu” là bài thơ rực rỡ về tả cảnh ngụ tình, là con tim, cảm nhận của tác giả Nguyễn Khuyến về bức họa đồ trời thu của đồng bằng Bắc Bộ. Một bức họa thu ở làng quê nhỏ yên tĩnh tới lạ kỳ, êm đềm, êm ả dịu dàng và tĩnh lặng được cảm nhận chi tiết cụ thể tới từng cảnh vật nhỏ nhất qua có tài & những rung cảm đặc biệt mà người sáng tác giành riêng cho quê hương mình, cho làng quê VN sau lũy tre. Hẳn phải có một tình yêu quê nhà sâu sắc, hồn quê đậm đà mới hoàn toàn có thể giúp Nguyễn Khuyến cảm nhận được bức tranh đẹp này. Nguyễn Khuyến xứng danh được ca ngợi là một trong nhà thơ kiệt xuất gắn với quê hương trong nền thơ ca cổ của dân tộc nước ta.
Bài nghiên cứu 22
“Thu là thơ của đất trời, thơ là thu của lòng người”. mùa thu với những cái lá vàng, tiết heo may lành lạnh luôn là niềm cảm xúc bất tận cho tâm hồn thi sĩ. Thu gợi lên các cảm hứng xốn xang & nỗi buồn tinh tế và sắc sảo, khiến người ta bất giác nhớ về 1 thời vang bóng. Lẽ tự nhiên và thoải mái, khi “ngô đồng hóa diệp lạc”, các vần thơ nói đến tình thu, cảnh thu luôn khiến ta chìm vào dòng cảm xúc miên man của nỗi buồn thi sĩ. và đến với Nguyễn Khuyến, người đọc có cơ hội được chiêm ngưỡng và ngắm nhìn một dáng hình mùa thu rất riêng biệt qua “Thu điếu”.
“Ao thu lạnh mát nước trong xanh,
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
ở 2 câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến không chọn cảnh núi non hùng vĩ hay sông hồ khoáng đạt vào tầm khoảng sang thu mà chọn những Tấm hình rất thân quen với nơi ông sinh ra và lớn lên: vùng đồng bằng Bắc Bộ:
“Ao thu lạnh giá nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Cái hồn của ngày thu hiện lên thật trong sáng, thuần khiết qua Hình ảnh “ao thu lạnh lẽo” & “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. các Tấm hình ấy gợi lên trong tâm địa người đọc một cảm giác phẳng lặng khó tả, tưởng chừng như đã tìm lại được cái hồn của ngày thu đồng bằng Bắc Bộ. Từ “một chiếc” đến “tẻo teo”, những từ ngữ được Nguyễn Khuyến sử dụng theo cấp độ tăng tiến khiến các sự vật vốn đã bé mọn nay lại càng trở nhỏ nhỏ thêm hơn.
bức họa mùa thu thường xuyên được Tam Nguyên Yên Đổ gợi lên bằng các nét vẽ tinh tế:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ bay vèo”
những quan sát tinh tế và sắc sảo cùng sự tĩnh lặng trong thâm tâm hồn đã hỗ trợ nhà thơ cảm nhận được các đường nét, chuyển động rất riêng biệt của mùa thu: sóng gợn lăn tăn trên mặt ao, lá vàng rơi trong gió. Chữ “vèo” trở thành nhãn tự của bài thơ mà Tản Đà từng một thời thán phục: “Chỉ 1 chữ “vèo” cũng đủ suy tôn cụ là bậc thầy về tài luyện chữ rồi”. thẩm mỹ và nghệ thuật lấy động tả tĩnh thường trông thấy trong văn thơ trung đại cũng đã làm rất nổi bật lên sự tĩnh lặng, thanh vắng của không gian ngày thu.
nhắc đến ngày thu, ngoài lá vàng rơi trong gió, làm sao hoàn toàn có thể bỏ lỡ sắc xanh rì đặc thù của bầu trời:
“Từng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
nằm phí trong “Thu vịnh”, bầu trời mùa chiếm lĩnh được Nguyễn Khuyến dùng hai con mắt hướng thượng để tò mò xuyên qua các tầng mây: “Trời thu trong veo mấy tầng cao”. sắc tố trời thu trong thơ Nguyễn Khuyến luôn được nhận diện là “xanh ngắt”. “Xanh ngắt” xuất hiện cái mênh mông của khung trời, đồng thời giúp người đọc cảm nhận được cái nhìn vời vợi của ông lão đánh cá khi chiêm ngưỡng và ngắm nhìn các áng mây đang lững lờ trôi. lộ diện một khoảng không khoáng đạt, các sự vật được thâu vào cặp mắt của nhà thơ không hẳn là “thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” mà lại là các Hình ảnh rất là thân thiết mà làng quê Bắc Bộ nào thì cũng có: Tấm hình tre trúc, ngõ xóm quanh co không một bóng người qua lại.
Cả bài thơ tưởng như là 1 bức tranh thu đậm màu cổ điển thì tới hai câu thơ cuối, Hình ảnh nhân vật trữ tình hiện lên trong một trạng thái thật bất ngờ & ý vị:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
“Tựa gối ôm cần” là tư thế trầm ngâm suy tư, đồng thời cũng biểu lộ tâm thế rảnh rỗi của bậc tao nhân mặc khách đã thoát khỏi vòng danh lợi. Nhà thơ Hình như đang chìm vào trong quả đât của riêng mình, của những suy tư, trăn trở, bởi thế cho nên một tiếng động rất nhỏ như tiếng cá đớp động dưới chân bèo cũng đủ để khiến người đi câu tỉnh thức và quay trở về thực tại. Đằng sau câu chữ, ta còn phân biệt sự đơn độc cùng nỗi buồn về nhân tình thế thái đang đè nặng lên tâm hồn nhà thơ- một ông quan nhà Nguyễn quyết giữ sự thanh liêm, trong trắng.
Khi nhận đánh giá về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn bắt buộc phải nhận bài Thu điếu là nổi bật hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Sự giản dị trong Hình ảnh và nét lạ mắt trong ngôn từ của “Thu điếu” hợp lí chính là chất men để cho lòng người nguyện say mê, chìm đắm?
Bài phân tích 23
Thu vốn dĩ là đề tài rất gần gũi trong kho tàng thơ ca nước ta. nếu như trong văn học tân tiến, ta hoàn toàn có thể phát hiện “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu hay “Thơ tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh thì khi quay trở về thời kì trung đại, “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến như một nét mực triển khai xong bức họa đồ mùa thu rực rỡ tỏa nắng nhưng man mác một nỗi buồn.
Tam nguyên yên đỗ Nguyễn Khuyến sinh vào năm 1835, là một trong nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học nước ta. Thơ văn của ông vừa mang sắc tố trào phúng, lại sở hữu bài nhuốm đậm sắc đẹp trữ tình. dù là bằng gam màu nào thì thơ văn của ông vẫn toát lên một nét rất độc đáo, làm say đắm biết bao thế hệ yêu thẩm mỹ.
“Thu điếu” hay “Câu cá mùa thu” là bài thơ Nôm khét tiếng, thuộc chùm thơ thu gồm ba bài của Nguyễn Khuyến là “Thu điếu”, “Thu ẩm” và “Thu vịnh”. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. khởi đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên một bức tranh ngày thu trong và tĩnh, gần gụi với Hình ảnh mùa thu thường trông thấy ở lảng quê Bắc Bộ:
“Ao thu lạnh mát nước trong veo
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Hai câu thơ, mười bốn từ nhưng các từ chứa vần “eo” đã sở hữu một số lượng đáng chú ý, khi đọc lên ta có cảm xúc khoảng không như co cụm lại, luồng khí thì lạnh lẽo và yên tĩnh đến quái đản. ngày thu đã đi đến qua các dấu hiệu của cảnh vật. Nước trong ao giá lạnh, mặt nước thì tĩnh lặng và trong veo đến hơn cả có thể thấy mặt đáy ao có các gì. những tưởng trong khoảng không lặng ngắt, im re đến cả u ám và mờ mịt, ảm đạm thì một Tấm hình mới xuất hiện, xua tan đi vẻ hoang sơ tĩnh lặng: một chiếc thuyền câu bé bỏng giữa mặt nước xanh ngắt. Chiếc thuyền “tẻo teo” ấy trông thật xinh xắn, tuy nhỏ nhắn nhưng nó hỗ trợ cho khoảng không nơi đây góp thêm phần ấm áp hơn, bởi trên chiếc thuyền, ắt hẳn có bóng hình con người xuất hiện…
không chỉ có thế, bức họa đồ thu còn được tác giả lan rộng ra hơn về chiều kích không gian:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.”
khoảng không tuy mở rộng với tương đối nhiều cảnh vật hơn nhưng sự yên bình của mùa thu vẫn không hề xoay chuyển. Mặt nước vẫn yên tĩnh đến lạ, chỉ có chút “gợn tí” bởi một cơn gió đầu thu. Cuốn mình theo cơn gió se se lạnh ấy là một chiếc “lá vàng…khẽ đưa vèo”. nghệ thuật và thẩm mỹ đối lập được dùng triệt để trong câu thơ này, giữa cái “khẽ” giữa chiếc lá rơi nhẹ dịu với từ “vèo” đặc tả cho vận tốc rơi nhanh, một chiếc lá rơi rụng chẳng thể nào xua tan đi cái sự lạng lẽ vốn có của mùa thu nơi đây.
những cảnh vật dưới mặt đất đã được đặc tả, người sáng tác thường xuyên hướng cái nhìn của bản thân lên bầu trời to lớn phía trên, xuất hiện thêm một không gian thoáng đãng:
“Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.”
bầu trời trong xanh là một sắc đẹp không còn nhầm lẫn của mùa thu. Trên khoảng không cao nhòng xanh trong ấy là các “tầng mây lơ lửng” tạo xúc cảm bềnh bồng, nhẹ nhàng, có chút nào đấy đơn độc, hiu quạnh khi trong không gian rộng lớn như thế mà chỉ có 1 phần mây lẻ loi giữa trời. chiều cao đã được lan rộng, không gian đã biết thành quang đãng, Nguyễn Khuyến lại xoay tầm mắt quay trở về mặt đất thân thuộc. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” người qua lại. không gian quả thật là yên mịch quá đỗi…
Thế rồi, trong cái không khí se se lạnh bởi mùa thu ấy, Hình ảnh con người sau cuối đã và đang xuất hiện:
“Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Hai câu thơ cuối cùng này đã góp thêm phần biểu hiện chân dung của tác giả. trong số những ngày cáo quan về ở ẩn, nhà thơ đã chọn cho chính bản thân một cái cần câu mà tạm quên đi việc dân, việc nước. mặc dù thế ông không thể nào chú tâm vào vấn đề đi câu mà chỉ chú ý tới cảnh vật xung quanh, có lẽ rằng trong thâm tâm ông, ông chỉ muốn có một khoảng không yên tĩnh để suy nghĩ về sự đời. Người câu cá giống như đang hòa làm một với vạn vật thiên nhiên, giống như đang đơn độc, lạc lõng giữa dòng đời xô bồ, sinh động.
ngày thu qua “Câu cá mùa thu” dù rất yên bình, hiu hắt & có phần ảm đạm nhưng đâu này vẫn mang những vẻ đẹp đặc thù, tỏa nắng đến quái gở. thông qua đó ta rất có thể thấy được tình yêu của nguyễn Khuyến so với cảnh thu & một lòng nồng nàn nhắm tới non sông chẳng thể nào bị xóa mờ.
Bài nghiên cứu và phân tích 24
nói tới ngày thu, chúng ta sẽ nghĩ đến khung cảnh nhẹ dịu và mơ mộng với màu sắc vàng vọt của trời, của các lá đang rụng rơi khắp phố P.. Cũng vì chút nhẹ nhàng ấy mà ngày thu thường gợi lên cảm giác buồn man mác trong tim người. Bài thơ “Câu cá mùa thu” của nhà thơ Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức tranh thu êm ả dịu dàng xen lẫn những cảm xúc chân thành của người thi sĩ.
mở màn thơ là khung cảnh nhẹ nhàng vốn có chốn làng quê thanh bình.
Ao thu lạnh buốt nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
mở ra trước mắt bạn đọc là mặt nước bát ngát, xanh thẳm trải dài ra vô tận. Hình ảnh ao thu là 1 trong thứ gì đó quá đỗi rất gần gũi đối với cư dân Bắc Bộ. Ao bé thêm hơn hồ, nhưng ở đây mặt ao lại như rộng hơn, bao la hơn trước sự yên tĩnh của đất trời. Trong cái to lớn ấy, nổi bật lên là hình chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”. Chiếc thuyền bỗng biến thành giữa trung tâm của bức vẽ & trở thành linh hồn của toàn bộ bài thơ. Người thi nhân ngồi trên chiếc thuyền ấy, đẩy tầm mắt ra xa để quan sát và tận thưởng toàn vẹn tiết trời và cảnh sắc ngày thu. có lẽ rằng lúc bấy giờ đã vào cuối thu nên tác giả mới cảm nhận được cái se lạnh của gió. Từ láy “lạnh lẽo” không chỉ gợi lên xúc cảm của làn da mà cồn gợi lên sự im ắng đến quái lạ. đang không gian ấy không có lấy một tiếng động, chỉ có mặt nước đang trải dài với các lăn tăn của sóng. Sự yên bình ấy làm cho mặt nước vốn trong lành lại càng có thể trở nên trong xanh hơn. Người câu cá, trên chiếc thuyền bé bỏng rất có thể quan sát được cả các chùm rêu mềm mịn đang uốn mình dưới lòng nước rồi thấy cả khung trời trong xanh đang in hằn lên mặt áo thăm thẳm. Sắc xanh bao trùm tất cả khoảng không, nhẹ nhàng đến mức trầm ngâm.
Hai câu thơ sau lại thường xuyên gợi lên sự tĩnh lặng của đất trời.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
ở 2 câu thơ này, Nguyễn Khuyến đã rất tài tình bút pháp lấy động tả tĩnh. Đã có mặt âm thanh nhưng sao nhỏ xíu quá. Đó chỉ là sự việc “hơi gợn tí” của các làn sóng nước, là một cái “vèo” chóng vánh của chiếc lá ngày thu đang rơi rụng. Có âm thanh thật đấy nhưng ta lại cảm nhận thấy nó bình lặng quá. cũng chính vì, chỉ trong không gian lạng lẽ đến hiu quạnh ta mới rất có thể lắng nghe được từng âm thanh bé xíu ấy. Cái động tại chỗ này càng làm gia tăng sự tĩnh lặng của bầu trời ngày thu. Trong câu thơ, sóng hiện lên là làn “sóng biếc”, trong xanh như ngọc bích. blue color của sóng, của nước của khung trời che phủ lấy không gian. & trên nền xanh ấy, một chiếc lá “vàng” lướt qua như cắt đôi bầu không khí. màu vàng ở đó là màu đặc trưng của mùa thu với sự rụng lá. chỉ cần một cơn gió nhẹ, những cái lá sẽ rơi “vèo” xuống mà không thể lưu luyến. Một cụ thể như thực, rất nên thơ.
Trong buổi câu cá mùa thu ấy, người thi sĩ quan sát kĩ tường mọi cảnh vật.
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
ngày thu, khung trời trong veo hơn, cao ráo & thoáng hơn. Trên không trung, các đám mây trắng bồng bềnh “lơ lửng”. Chúng không hồ hởi trôi theo những cơn gió mà lững thững đến ngưng đọng. Chòm mây cứ nhẹ nhàng đứng đó, mơ màng như chính tâm hồn con người. Đưa mắt lên rất cao quan sát sự thanh thoát của đất trời, tầm mắt lại nhanh chóng rảo quanh từng con ngõ nhỏ. Trên miền quê ấy, phủ quanh bởi màu tươi tốt mát của trúc. các con ngõ ngoằn nghèo, quanh co nhưng lại vẳng lặng không một bóng người. Hình như, có một cảm xúc gì đấy cứ man mác trong trái tim người. Mặt ao đã tĩnh mịch ngay tới cả xóm làng cũng yên ắng quá. Cảnh đẹp nhưng lại đượm buồn, thê lương.
Mãi đến cuối bài, Hình ảnh con người mới chịu có mặt.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới ao bèo
Người đi câu cá hiện lên nhưng lại ở phía trong tư thế im lìm, thư thả. Ông cứ ngồi đó, bên chiếc cần câu và đưa mắt ra nhìn xung quang. Đi câu cá nhưng lại chẳng hề để ý tới sự việc câu cá bởi lẽ ông đã “buông cần” chứ không phải là “ôm cần”. Mọi sự chú ý như giành cho câu chuyện khác & đi câu cũng chỉ là một cái cớ để ông đắm chìm trong sự yên bình của không gian. Trước những rối ren của chốn quan trường, người thi sĩ chỉ muốn rút lui, muốn tìm một nơi thanh tịnh, yên ả để hòa hợp với thiên nhiên, với đất trời. tuy nhiên, dù đã lui về quê ở ẩn, đã an nhàn bên chiếc cần câu nhưng suy nghĩ ông Dường như vẫn còn vướng bận đến bao chuyện nhân thế. thế cho nên, chỉ một tiếng cá rất khẽ dưới chân bèo cũng đủ để triển khai ông bất ngờ bởi ông đang say sưa với các nghĩ suy của mình. Tiếng cá ấy làm ông bừng tỉnh, giúp ông quay trở lại với thực tại & cắt phăng các tâm lý vẫn quẩn quanh trong đầu. Tiếng cá rất khẽ ấy càng nhấn mạnh vấn đề sự yên ắng của bầu trời mùa thu, một sự yên ắng đến tột cùng.
như thế, với tám câu thơ ngắn ngủi nhưng bài thơ “Câu cá mùa thu” cũng đã vẽ nên bức họa đồ thu im lặng và qua đó biểu hiện được tâm tư nguyện vọng, tâm trí của người sáng tác. “Thu điếu” sẽ mãi đọng lại trong tim người đọc và chẳng thể phai nhòa.
Bài phân tích 25
Nguyễn Khuyến (1835-1909) hiệu là Quế Sơn, ông sinh ra ở Tỉnh Nam Định nhưng cuộc sống ông đa số lại sống ở Bình Lục, Hà Nam. Nguyễn Khuyến là kẻ có tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, ông nhất quyết đấu tranh không chịu bắt tay với thực dân Pháp. các sáng tác của ông bao gồm cả chữ Hán & chữ Nôm, những sản phẩm thực tế đa phần là thơ.
Câu cá ngày thu là một trong ba bài trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến gồm “thu điếu, thu ẩm, thu vịnh” được viết bằng chữ Nôm. thể hiện có tài kiệt xuất của Nguyễn Khuyến trong việc tả cảnh ngụ tình.
không gian mùa thu hiện lên qua hai câu thơ đầu rất gần gũi, thanh tao:
Ao thu nóng bức nước xanh ngắt
một cái thuyền câu bé tẻo teo
“Ao thu lạnh lẽo” Bức Ảnh chiếc ao “thu” to lớn giữa ngày thu mới “lạnh lẽo” làm sao, nhưng liệu nó có nóng sốt thật? ngày thu mùa của sương, mùa có nhưng cơn gió se se lạnh. thông qua mùa hè đầy chói chang của nắng, của việc sống động của mùa hè oi ả, mùa thu lại mang trong mình chút trầm ổn đôi khi giá lạnh đến vậy. Nhưng ao thu đâu có mát mẻ đâu, mà chúng rất trong, trong đúng cả nghĩ đen lẫn nghĩa bóng, làn nước trong vắt, âm thầm hay là con tim của người thi sĩ “trong veo” như thế. Giữa cái ao thu có mặt một vật tưởng quen mà lại rất lạ, được nhà thơ ví von lại càng có điểm khác biệt. “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” – chiếc thuyền câu hoàn toàn có thể chở được đến ba bố người, nhưng dưới con mắt của Nguyễn Khuyến nó chỉ bé “tẻo teo” mà thôi, một Hình ảnh tưởng ngột ngạt, nhỏ nhắn mà làm người đọc lại cảm nhận thấy nhẹ dịu, thanh thoát bao nhiêu.
Hình ảnh bức họa đồ của mùa thu dưới cái nhìn của nhà thơ tiếp tục được khắc họa bởi hai câu thơ tiếp:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
các làn “sóng biếc” lăn tăn trên mặt ao hòa quyện phố hợp nhịp nhàng với “hơi gợn tí”, bức tranh thu không những cảnh mà còn tồn tại thanh lẫn sắc, đưa ta vào sự chuyển động của đất trời, mọi vật hoạt động tương tác với nhau vô cùng nhẹ dịu, có chút nào đấy ăn ý càng để cho bức tranh thêm sinh động hơn. biện pháp thẩm mỹ lấy động tả tĩnh, nhà thơ đã diễn đạt cho tất cả chúng ta thấy, cảnh vật bao quanh thật yên bình mới cảm được những hoạt động tưởng như không có âm thanh đó. Phải một người dân có tâm hồn cảm nhận tuyệt vời mới cảm được các âm thanh bằng tất cả giác quan hay đến như vậy! không chỉ là thanh mà còn sắc, sắc vàng của chiếc lá rụng ngày thu, tí tách được các làn gió se se lạnh của mùa thu đưa đi, đưa người đọc vào bức họa làng quê phẳng lặng mà tĩnh lặng đến thế. phải chăng, tình yêu thiên nhiên yêu cây cối của Nguyễn Khuyến để đạt đến hơn cả, hồn hòa vào vạn vật thiên nhiên chăng?
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
không gian của bức họa đồ chiếm hữu được miêu tả từ gần đến xa. Từ chiếc ao ở gần con mắt đến bầu trời xanh trong của ngày thu “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”, động từ lơ lửng được nhà thơ sử dụng rất đắt, cho ta cảm xúc chơi vơi, lơ lửng trước cảnh đẹp đất trời, bầu trời xanh nổi bật của mùa thu làm ta choáng ngợp, sau các trận mưa giông với bầu trời xám xịt của mùa hè, Bức Ảnh bầu trời trong veo một màu của ngày thu cho ta chút nào đấy nhàn nhã, yên bình, nhẹ dịu, lơ lửng trước sự bình yên đó.
Gần rồi xa, xa lại rồi gần “ngõ trúc” nơi không còn xa lạ của nhà thơ, ngõ trúc với hàng trúc xanh rì rào, quanh co uốn lượn nhưng lại trống vắng đến thế, “khách vắng teo”, sự trống vắng của khách đến chơi hay sự trống vắng của 1 thi sĩ yêu nước, mang bao nỗi ưu tư?
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu khẽ động dưới chân bèo
Tấm hình một ông lão câu cá, tựa đầu gối buông cần hồi lâu mà không được thành quả đó, gợi cho những người đọc thấy được sự bế tắc chưa tìm được hướng đi cho bản thân hay cho một tấm lòng yêu nước thương dân, tìm cách giải phóng những tâm hồn đang bị gông cùm? Giữa khoảng không yên bình đó, chỉ có 1 tiếng động duy nhất “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo” tiếng cá đớp động đó rồi mà sao ta chưa thể có kết quả đó, Nguyễn Khuyến có phải là câu cá? Hay ông đang chỉ mong cảm nhận hết cái khoảng không phẳng lặng tĩnh lặng thanh thoát của ngày thu làng quê kia, để tâm không xẩy ra nao núng trước các cám dỗ cuộc đời.
Câu cá mùa thu, là bức họa đồ tả cảnh ngụ tình thành công bùng cháy của Nguyễn Khuyến. nhà thơ hẳn phải có một con tim tới cả xuất thần mới rất có thể cảm nhận được các âm thanh bé xíu đến vậy. “Tĩnh” của cảnh vật hay đó là tĩnh trong trái tim hồn nhà thơ, đâu có có chút xao động của cuộc sống thường ngày, “tiếng sóng, tiếng lá rơi, tiếng cá đớp” nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn những lại có các va đập không hề nhỏ…
Bài thơ thể hiện tài năng kiệt xuất của Nguyễn Khuyến với vốn ngôn ngữ sâu rộng, bút pháp nghệ thuật tài tình, nghệ thuật lấy động tả tĩnh thành công, tả cảnh ngụ tình được nhà thơ sử dụng linh hoạt, các dùng từ, điệp từ và phối từ hoạt bát tạo công dụng thẩm mỹ tối đa, đi sâu vào lòng người. đâu phải chỉ vạn vật thiên nhiên mà còn thấy được cả một tâm hồn người thi sĩ.
Bài thơ Câu cá mùa thu biểu lộ sự cảm nhận và thẩm mỹ và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh quan mùa thu của Đồng bằng Bắc Bộ, cho biết thêm tình yêu thiên nhiên, nước nhà, tâm trạng thời thế & tài thơ Nôm của nhà thơ.
nghiên cứu bài thơ Câu cá mùa thu chi tiết nhất 26
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là 1 trong những nhà nho có học vấn thông thái, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc. với các bài thơ bình dị, hồn hậu về cảnh vật và cuộc sống con người vùng Bác bộ, Nguyễn Khuyến được ca ngợi là “nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam”. Bài thơ ngày thu câu cá (thu điếu) là sản phẩm thực tế xuất sắc của Nguyễn Khuyến trong time ẩn cư ở quê hương.
Nguyễn Khuyến là kẻ tài năng, có cốt cách thanh cao, chính trực; có tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc. con tim Nguyễn Khuyến lúc nào cũng khá rộng rãi mở, giàu cảm giác trước cuộc sống thường ngày & gắn bó với thiên nhiên. Nguyễn Khuyến ít viết về ngày xuân mà mà tình cảm đặc biệt quan trọng cho mùa thu. chắc rằng do tâm hồn bất mãn với thời cuộc, muốn tìm một nơi để an trú lòng tin, mùa thu đó là một lựa chọn hiển nhiên so với ông.
mùa thu là mùa của sự tàn phai, rất hợp với tâm trạng Nguyễn Khuyến lúc này. Bài thơ Nằm trong chùm 3 bài thơ viết về đề tài ngày thu của Nguyễn Khuyến: “Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm”. Đây là một trong bài thơ đặc sắc nhất trong mảng thơ Nôm của ông, sẽ là “điển hình hơn cả cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu)
Bài thơ biểu lộ sự cảm nhận tinh tế và sắc sảo của Nguyễn Khuyến về vẻ đẹp của phong cảnh ngày thu ở đồng bằng Bắc Bộ, cùng theo đó biểu hiện sắc đẹp tâm hồn & niềm ưu tư của nhà thơ trước then cuộc. Cảnh thu yên tĩnh, tình thu nồng thắm gợi lên cái hồn cổ xưa của muôn năm không quen. Nguyễn Khuyến với cái tài của 1 người vốn gắn bó với đồng ruộng không cần dụng cong gì mà đã nắm bắt được cái hồn tinh tế và sắc sảo ấy:
Ao thu mát rượi nước trong xanh,
một cái thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Cảnh sở hữu được gởi lên từ các Bức Ảnh thân quen. Cảnh vừa trong vừa tĩnh, vừa cân bằng, hợp lý, mang vẻ đẹp nên thơ nhưng củng đượm buồn.
Điểm nhìn của thi nhân phát là thuyền câu trên ao thu với són biếc, lá vàng. tầm nhìn hướng thăng thiên cao (trời thu), hướng ra xa thấy ngõ trúc quanh co rồi trở lại xuất phát điểm thuyền câu, ao thu. Cảnh thu được mừng đón từ gần thấp đến cao, xa rồi từ cao, xa quay về gần. Tầm nhìn chung mọi hướng của không gian thu để phân biệt tất cả những vẻ đẹp của cảnh sắc ngày thu.
bức họa cảnh quan ngày thu hiện ra với những nét đặc thù vốn có của nó. Cảnh thu vừa trong sạch vừa yên bình. trong sáng với mặt “nước trong veo”, làn “sóng biếc”, với “bầu trời xanh ngắt” . Đó là 1 trong những bức họa thu cổ xưa với thi đề, thi liệu quen thuộc (thu thuỷ, thu thiên) nhưng lại thân thuộc, thanh sơ. yên bình với khung cảnh vắng ngắt, đường đi không một bóng người. Âm thanh rất mơ hồ làm khoảng không thêm quạnh vắng (cá đâu đớp động dưới chân bèo). các hoạt động rất nhẹ, rất khẽ (song hơi gợn tí, lá khẻ đưa vèo, tầng mây lơ lững, cá đâu đớp động dưới chân bèo) khơi gợi thêm sự tĩnh lặng của cảnh vật.
bức họa thu hài hoà, cân đối về sắc tố, hình khối và đường nét. màu sắc hiện lên với gam màu chủ đạo là màu xanh gợi không gian se lạnh của mùa thu; một ít màu vàng của lá, white color của mây khiến bức họa thêm sinh động.
Đường nét, hình khối cân đối cũng khá được gọt giũa, bố trí hết sức tài tình với “ao thu nhỏ”, “chiếc thuyền câu” . Theo này cũng bé tẻo teo và dáng người cũng thu nhỏ lại. Đường nét mảnh mai, tinh tế và sắc sảo với đường uốn lượn của ngõ trúc, đường gợn của sóng.
Cảnh mùa thu đẹp, buồn, tĩnh lặng, bình dân, thanh sơ, thân cận, rất tiêu biểu vượt trội cho ngày thu của làng quê Bắc Bộ. có lẽ rằng nhà thơ đã quá kiệm lời khi nói quá ít về cảnh thu đẹp lung linh & tĩnh lạng như tờ ấy. Ông như sợ nếu chạm nhẹ hay khẽ rung cũng có thể có thể làm đổ vỡ bức tranh tuyệt vời hiếm gặp ấy. như 1 bức tranh thủy mặc đơn sơ mà ấn tượng, cảnh thu lập tức nằm gọn trong trái tim hồn người đọc, ẩn náu để rồi lan tỏa miên man.
Tình thu hòa quyện trong trời xanh nước biếc. tác giả cách cảm nhận cảnh thu hết sức tinh tế và sắc sảo bằng một tâm hồn thuần khiết của người gắn bó tha thiết với vạn vật thiên nhiên, đắt nước. Ông nâng niu tất cả, giữ gìn toàn bộ với các sắc đẹp dáng quý của nó. Mọi thứ xa hoa đều bị gạt bỏ, chỉ với lại đay chất đơn sơ, mộc mạc mà thắm đượm nghĩa tình.
không gian thu tĩnh lặng gợi sự cảm nhận về nỗi cô quạnh, u uẩn trong thâm tâm hồn nhà thơ:
Ao thu giá lạnh nước xanh ngắt,
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
bức tranh ngày thu tĩnh lặng, u buồn cũng là tâm trạng về thời thế đầy uẩn khúc của người sáng tác. Ông chọn vần “eo”, một “tử vận” vốn rất oái ăm, khó làm để biểu đạt cảnh vật. Với vần “eo” gây cấn ấy, không gian càng trở nên lặng ngắt, nhỏ dần, hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc: veo-teo-vèo-teo-beo.
Từ “vèo” bộc lộ của dòng thời gian đang trôi nhanh, rất nhanh. và như thế, cuộc đời, thế cuộc cũng đổi thay chóng vánh. Thoáng chốc, đời người đã bước sang tuổi xế chiều. biết bao mong ước, khát vọng không được hoàn thành xong. Còn cuộc đời thì cứ hững hờ, dùng dằng, quanh co, không có hướng đi:
Tầng mây lơ lửng trời trong veo,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Người nho sĩ với khát vọng kinh bang tế thế, trị nước bình thiên hạ, muốn cứu đời, làm thay đổi thời tuy nhiên giờ nhìn lại đã nhận thức thấy xa vời quá đỗi, bất lực nhìn dòng thời gian trôi đi.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Tựa đề bài thơ gây một sự chăm chú đặc biệt quan trọng. Câu cá mùa thu mà không để ý đến chuyện câu cá, chỉ quan sát thiên nhiên, lắng nghe, hoà mình với thiên nhiên. Chủ đề trữ tình có mặt trong tư thế ngồi bất động “tựa gối buông cần”. đó là tư thế thu mình lại, không hẳn để mong chờ mà là để suy tu. Cõi lòng nhà thơ đang yên bình tuyệt vời nhất.
Bài thơ kết lại trong cái động rất nhỏ của tiếng cá “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Chữ “đâu” diễn tả cái bất ngờ thảng thốt, cái ngơ ngác kiếm tìm như người mất phương hướng.
Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của một con tim gắn bó với thiên nhiên non sông. Dù ở quê hương nhưng vẫn thấy lạc lõng, đơn độc trước thực tại. Lạc lõng là bởi không thực hiện được chí nguyện của người tới trường. Lạc lõng là bởi nỗi lòng sâu thẳm ấy không còn thổ lộ cùng ai. Chỉ có đất trời mới thấu hiểu. Đó cũng là tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không thua kém phần sâu sắc của Nguyễn Khuyến vậy.
Câu cá mùa thu rất thành công với lớp ngôn từ đơn giản, trong sáng, giàu giá trị biểu cảm. Cách biểu đạt cảnh vật sắc sảo với bút pháp điểm nhãn đày tính nghệ thuật. Từ láy tạo hình lơ lững, tẻo teo… biểu lộ mạnh mẽ sức khỏe tạo hình. Cách gieo vần eo gợi sự nhỏ hẹp của khoảng không thu ở làng quê, sự lặng ngắt, thu nhỏ dần của không gian, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc.
hơn thế, nhà thơ còn sử dụng nhiều từ chỉ mức độ độc đáo: lạnh ngắt, xanh ngắt, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, trong xanh, vàng teo, quanh co,…Kếp phù hợp với bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức họa đồ cảnh sắc. áp dụng tài tình nghệ thuật và thẩm mỹ đối thanh đối ý. ngày thu câu cá thật xứng đáng là một tuyệt phẩm đặc sắc của làng thơ nước ta từ xưa tới nay.
Bài thơ bộc lộ sự hòa hợp giữa sắc đẹp u tĩnh của phong cảnh ngày thu với nỗi lòng u uẫn của 1 người muốn giữ phẩm giá trong sạch giữa cuộc sống rối ren, loạn lạc.
Nguyễn Khuyến đã rất chiến thắng khi áp dụng bút pháp diễn đạt tinh tế, tài hoa (Thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh, tả cảnh ngụ tình). Ong cũng chăm chú sử dụng lớp ngôn ngữ trong sạch, giản dị, giàu sức gợi cảm. Cách gieo vần “eo” (tử vận) được dùng rất dị, góp thêm phần biểu đạt nội dung, gợi tả không gian im thin thít, sự thu nhỏ dần, tâm trạng đầy uẫn khúc… có lẽ, sự gian nan ấy cũng chính là tinh thần bế tắc của ông trước thời cuộc.
mùa thu câu cá đã thể hiện sự cảm nhận & thẩm mỹ gợi tả tinh tế và sắc sảo của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc ngày thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cho thấy tình yêu vạn vật thiên nhiên, đất nước, tâm trạng thời thế và tài thơ Nôm của người sáng tác.
Bài nghiên cứu 27
Nguyễn Khuyến làm thơ để gửi gắm tâm tình. Ông tả cảnh mùa thu đi câu cá nhưng đi câu chỉ là dịp để nhà thơ được nhìn ngắm cảnh vật, buông thả hồn mình, giao hòa với thiên nhiên. Toàn bài Thu điếu là cảnh vật ở trạng thái yên bình và lắng lại đằng sau những câu chữ và Bức Ảnh của trời thu là nỗi lòng thầm kín của tác giả.
Ao thu giá lạnh nước xanh ngắt
một cái thuyền câu bé tẻo teo.
Mùa chiếm lĩnh được xuất phát từ không gian “ao thu” – một Hình ảnh giản dị và đơn giản, bình dân nơi vùng ao chuôm nước đọng của miền quê Bắc Bộ. Cái giá lạnh thấm vào “ao thu”, nước thu và thấm cả vào hồn người cảm nhận. Hình ảnh “nước trong veo” gợi cảm giác đứng yên 1 cách tuyệt vời. ngày thu thường không có gió mạnh để mặt nước chao động 1 cách kinh hoàng nhưng lại hay có mặt những làn gió nhẹ phe phẩy làm giao động mặt nước dù chỉ là rất khẽ, rất nhẹ. Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức họa đồ thu rất là yên bình, tĩnh tới cả mà tác giả thấy được “nước trong veo”, Hình như soi được đến tận cả đáy ao. Với cách gieo vần “eo” khiến cho cảnh đã lặng càng lặng hơn.
Trên cái nền ao thu nhỏ nhắn đó xuất hiện một cái thuyền, có cả người đi câu. Chiếc thuyền đã bé lại tẻo teo, cảnh Dường như co lại tới mức tột cùng, khác hẳn vối không gian trải rộng trong Thu vịnh. nếu như cảnh ở Thu vịnh mênh mông bao nhiêu thì cảnh ở bài Thu điếu lại thu hẹp lại bấy nhiêu. Chiếc thuyền “tẻo teo” Nổi lên phía trên mặt ao Hình như cũng không di động. cả hai câu thơ là 1 trong những cảnh tĩnh lặng, bất động.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Đã ban đầu có một chút dao động của mặt nước. Cái động rất khẽ, mọi cảnh vật vẫn yên bình. Cái gợn lên của mặt nước thực tế là động mà để nói tĩnh. Có tĩnh, có lặng thì người sáng tác mới nghe được cả tiếng lá “đưa vèo”. Một tiếng lá rơi giữa mùa thu mà thi nhân cũng cảm nhận được độ rơi, âm thanh của chính nó thì quả thực không gian ấy đã trọn vẹn im ắng. Đưa mà lại “đưa vèo”, “vèo” là 1 động tác rơi rất nhanh nhưng chính là “bay vèo”, tuy vậy ở chỗ này lại “đưa”, “đưa” thì không thể nhanh được mà thậm chí chậm. Mà khẽ đưa vèo thì nó còn nhuốm vào đây một chút buồn, chút ngẩn ngơ. Với Nguyễn Khuyến, ngày thu chưa tới bằng Hình ảnh lá ngô đồng nữa mà xuât hiện “lá vàng” — chắc hẳn rằng là lá tre, lá trúc ở quanh quẩn bên bờ ao cứ đến mỗi độ thu về thay lá thì lại rơi xuống mặt hồ. Hình ảnh này râ’t rất gần gũi, đặc trưng cho mùa thu ở nông thôn nước ta. không gian được bán ra cao rộng hơn.
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
“Tầng mây lơ lửng”, bầu trời được chuyên sâu lên bao phủ hết cái ao bé nhỏ. Cái “lơ lửng” của tầng mây, cái “xanh ngắt” của nền trời tạo một cảm giác bâng khuâng khó hiểu. “Ngõ trúc” – một Bức Ảnh mà số đông làng quê nào trên nước nhà VN cũng đầy đủ. tuyến phố làng “quanh co” tạo cho cái uốn lượn vòng vèo và có một chút hun hút của ngõ làng trong một buổi chiều vắng. “Vắng teo” vắng đến không có một bóng người.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ nói đến chuyện đi câu mà đến câu thứ bảy rồi mới xuất hiện Tấm hình của ông già câu cá. Người câu “tựa gối” như suy tư điều gì chứ không chú tâm vào vấn đề câu cá. có vẻ như Nguyễn Khuyên mượn cái thú đi câu để nghĩ về sự đời, việc nhân tình thế thái chứ không thật vì mục tiêu câu cá. vậy nên ngồi đã lâu mà chẳng được con cá nào. Đến cái điều mà người sáng tác đang nghĩ suy cũng lặng đi trong cái “tựa gối”.
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Câu thơ làm mặt nước rung lên, chao động. Cả bảy câu thơ phần nhiều toàn là cảnh lặng trong trạng thái tĩnh, riêng câu thứ tám làm lung lay cả bài thơ. Cái động phá tan sự yên bình, u buồn, làm cho cảnh trở nên tấp nập hẳn lên. “Cá đâu đớp” là câu hỏi tu từ, một thắc mắc càng nhấn mạnh thêm việc đi câu không phải là chủ yếu mà chỉ là cái cớ để nhà thơ thả những tâm sự kín kẽ của mình vào cảnh vật, vạn vật thiên nhiên, đất trời mùa thu. Câu thơ cuối của bài bát cú thường được gọi bằng câu “điểm nhãn”. Sau vẻ tĩnh lặng của một sức sông chứa đựng, mãnh liệt, tạc vào thi nhân trong dáng vóc ngư ông, một đường nét bất động trên bức họa thu. tâm lý Nguyễn Khuyên dâu có để tại việc câu cá, ông còn mãi ngắm nhìn cảnh vật & bận suy tư. Bởi thế nên người câu cứ tựa gô’i ôm cần, mà cá thì cứ bình thản “đớp động”. Hai việc ấy chả có gì tương quan tới nhau cả.
Bài thơ là bức tranh thủy mặc giữa mùa thu đẹp tuyệt vời được dệt bằng ngữ điệu dưới bút pháp tài tình của Nguyễn Khuyến. Thu điếu vừa khít vừa buồn, nét đẹp dành riêng cho vạn vật thiên nhiên vạn vật, cái buồn giành riêng cho nỗi lòng nhà thơ – cái buồn mang tính nhân bản của một con người luôn nặng nợ với non sông, quê nhà.
Bài nghiên cứu và phân tích 28
ở trong kho báu văn thơ trung đại nước ta có khá nhiều bài thơ viết về ngày thu hay và nhắc tới thơ thu là người ta không thể không nhắc tới chùm thơ thu của Tam Nguyên Yên Đổ – Nguyễn Khuyến. và bài thơ Câu Cá ngày thu – Thu Điếu được mỗi cá nhân rất chi là yêu mến.
Đọc bài thơ Nguyễn Khuyễn đã khắc tạc, vẽ lên các đường nét đơn giản và dễ dàng nhưng cũng đã cho thấy được cái chứa chan, sự mênh mang của mùa thu như hiện ra trước mắt người đọc.
Ao thu lạnh buốt nước trong veo
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn khơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu Điếu đã được khiến cho bằng tất cả những thi liệu đượm chất thu và nó còn mang được màu sắc hết mực cổ điển. nói theo cách khác Hình ảnh “thu thủy” – chỉ dòng nước mùa thu sóng đôi với “thu thiên”- Hình ảnh bầu trời thu, phối hợp cùng lá thu và Bức Ảnh người câu cá chính là các đường nét quan trọng trong bức họa đồ thu của Nguyễn Khuyến. Ao thu Theo luồng thông tin có sẵn đên vốn dĩ là một không gian chẳng còn lạ lẫm của vùng quê Bắc Bộ. Thế rồi giữa trung tâm của bức tranh thu là một cái thuyền câu như cứ “bé tẻo teo”. hoàn toàn có thể thấy chính từ chính chiếc thuyền con giữa lòng ao nhỏ ấy thì với ánh mắt của thi nhân bao quát ra bao quanh & cảm nhận mặt nước ao thu giá lạnh, ao thu lại còn trong xanh đến hết độ. trải qua đây ta phân biệt được ngày thu hiện lên với nào sóng biếc “gợn tí”. và Tấm hình lá vàng được cơn gió thu đưa vèo trong cơn gió, khung trời trong veo rồi ngõ trúc cứ thật quanh co uốn lượn – Tấm hình đặc trưng ngày thu vùng quê Bắc Bộ. với các nét trẻ đẹp này khung cảnh quê nhà mang được bao nhiêu sự giản dị và đơn giản thân thuộc, gắn liền với quê hương.
Ao thu lạnh lẽo nước xanh ngắt
một cái thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn khơi gợn tí
không phải ngẫu nhiên mà tác giả Xuân Diệu từng nhận xét rằng “Thu điếu (Câu cá mùa thu) là điển hình hơn hết cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam”. trải qua đây người đọc như phân biệt được Bức Ảnh của ngày thu của thi nhân không chỉ là gây ấn tượng ở sắc tố, mùa thu ấy không chỉ đẹp trong từng nét họa mà còn vang động các thanh âm rất đặc biệt nữa. Tấm hình Ao thu hiện ra qua hai tính Từ đó là: nóng sốt & trong veo – ao lạnh, nước yên và trong đến tận đáy. Bức Ảnh bầu trời Nguyễn Khuyến lại lựa chọn điểm tô màu “xanh ngắt”. Với Bức Ảnh greed color này nó còn chính là sợi chỉ xuyên thấu liên kết chùm thơ thu ba bài của thi nhân lại với nhau. Màu xanh ngắt đó là màu xanh da trời không xáo trộn, không gợi tạp mà này lại nhấn mạnh vấn đề thần thái riêng của mùa thu.
Tấm hình lá vàng là 1 trong những Hình ảnh đặc trưng của mùa thu kết hợp với ngõ trúc tạo nên một thần thái riêng cho làng cảnh nước ta. Thế rồi chính với câu thơ cuối đã được người sáng tác khéo léo lồng vào bút pháp thi ca cổ xưa đó là nghệ thuật và thẩm mỹ lấy động đánh tĩnh. chắc chắn phải là 1 trong những khoảng không yên bình tuyệt vời và hoàn hảo nhất thì cả con người với vạn vật thiên nhiên hiện nay đây mới hoàn toàn có thể giật mình trước âm thanh rất nhỏ chính là Hình ảnh tiếng cá đớp động. có lẽ rằng chính cái động của tiếng cá đớp càng làm khá nổi bật cái tĩnh chung của cảnh. Người đọc như nhận ra được bức họa thu hiện lên với sắc đẹp thanh vắng, quạnh hiu & ở đây cũng chỉ có độc tôn thi nhân đã và đang trong vai của 1 ngư ông đang đối diện với vạn vật thiên nhiên mà giống như đang chìm vào cõi suy tư trầm ngâm. chiêm ngưỡng và ngắm nhìn cảnh không gian yên bình, vắng người, vắng tiếng, cảnh hẹp và thu nhỏ trong khuôn ao làng xóm
không hề sai khi ta nhận xét rằng bức tranh thu của Nguyễn Khuyến còn là một sự hòa quyện sắc sảo giữa muôn vàn cung bậc của những “điệu xanh”. Rồi như điểm xuyết trong số điệu xanh đó chính là Bức Ảnh của lá vàng đã tạo lên được sự nổi bật của bức họa đồ thu. tác giả Nguyễn Khuyến giống như là đang nghiêng lòng mình, ông như lặng mình để rất có thể lắng nghe mọi tàn phai trong sự hoạt động khẽ khàng của cảnh. hoàn toàn có thể thấy được cả bức họa thu là sự việc hòa điệu về đường nét vận động mảnh mai, luôn nhẹ nhàng đến tinh tế và sắc sảo thông qua chuỗi các động từ được sử dụng trong bài như; “khơi gợn tí”, “lơ lửng”, “khẽ đưa vèo”… Tấm hình ao thu nhỏ nên thuyền câu bé, trời trong xanh nên giúp màu nước thêm trong, khách vắng teo nên người ngồi câu cũng trầm ngâm & rất chi là vắng lặng. Chính bức tranh vạn vật thiên nhiên được hòa sắc vào nét, tất cả như đã bỗng có thể trở nên hợp lý xứng hợp, đẹp đẽ đến lạ kì.
Với hai câu thơ cuối kết lại mạch cảm giác, gợi ra lòng người thanh thản với tư thế thu mình ngồi đến âm thầm của 1 ngư ông đang lánh đục về trong.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Nhà thơ Nguyễn Khuyến như chăm chú dõi nhìn cảnh quan ngày thu, cho đến khi nghe tiếng cá đớp động dưới chân bèo thì lúc đó ông mới bất ngờ sực tỉnh. Cứ như vừa quay lại với thực tại, nhà thơ đã đưa mình vào trạng thái lửng lơ vậy. Liệu có phải người đi câu cá hay chỉ đi để ngẫm nghĩ về cuộc sống nhất là đối với một người lánh đục về trong như Nguyễn Khuyến. trải qua đây người đọc nhận biết được ở Nguyễn Khuyến một con tim gắn bó với thiên nhiên, một tấm lòng yêu nước thuần hậu, thầm kín nhất. Khi biểu lộ được nỗi buồn trong cảnh thì không biến thành đẩy được mức độ u uất mà luôn tỏa khắp đến nhẹ dịu, xung quanh nhưng vẫn tạo nên được 1 khoảng chừng lặng trong tâm hồn. Bài thơ viết về ngày thu đã mang trong mình 1 nỗi u hoài ấy của người sáng tác. điều ấy mới hoàn toàn có thể làm ra lưu luyến trong lòng trí người đọc, làm nên bao nhiêu nỗi day dứt với đời và chia thành giá trị trường tồn, sức sống lâu bền cho tác phẩm
Với “Thu điếu” Câu cá ngày thu của tác Nguyễn Khuyến đã tạo nên cho chính mình một chỗ đứng quan trọng trong nền thơ ca trung đại việt nam từ xưa đến thời điểm này. Bài thơ chất chứa những con chữ và lại mang được cái tình của người thi nhân yêu nước. Qủa không sai khi nói bài thơ hơn một bức tranh tả cảnh trời thu.
Bài nghiên cứu và phân tích 29
Nguyễn Khuyễn sinh 1835 mất 1909. Lúc nhỏ tên là Thắng, học giỏi, mưu trí. quê hương Nguyễn Khuyến thuộc tỉnh Hà Nam ra đời ở quê ngoại: Hoàng Xá nay là xã Yên Trung, huyện Ý Yên, Nam Định. Lớn lên, Nguyễn Khuyến về quê nội: Làng & (Vị Hạ), xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. mái ấm gia đình Nguyễn Khuyến có cổ xưa nho học. Nhưng đến đời cụ thân sinh ra Nguyễn Khuyến không đỗ đạt chỉ ở trong nhà dạy học. Nguyễn Khuyến đỗ đầu cả ba kì thi: Hương, Hội, Đình. Người ta gọi cụ là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan 14 năm. Năm 1884, Nguyễn khuyến cáo quan về làng, dạy học sống thanh bạch. Nguyễn Khuyến là kẻ tài năng, cốt cách thanh cao, chia sẻ thấu hiểu với người dân ở quê hương ông và tấm lòng yêu nước thầm kín, nhất quyết chưa hợp tác với cơ quan ban ngành thực dân Pháp. Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, con số lớn. Hiện còn 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ. Thơ Nguyễn Khuyến biểu hiện tình yêu quê nhà, giang sơn, gia đình, bạn bè, phản ánh cuộc sống thường ngày thuần hậu, chất phác, nghèo khó của nhân dân. cùng theo đó tỏ thái độ châm biếm đả kích các tầng lớp thống trị, bọn thực dân và tay sai phong kiến. đóng góp trông rất nổi bật nhất của Nguyễn Khuyến đối với nền văn học dân tộc là mảng thơ viết về làng quê, thơ trào phúng và ngữ điệu thơ Nôm.
Thu điếu Nằm trong chùm thơ thu (3 bài). Cả ba bài đều sở hữu chung một đề tài về ngày thu (Thu Vịnh, Thu điếu, Thu ẩm). Câu cá mùa thu hòa hợp giữa cảnh vạn vật thiên nhiên thanh sơ của nông thôn êm đềm, tĩnh mịch vào tiết thu với tâm trạng thời thế kín kẽ của thi sĩ.
Viết về mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca phương Đông. Nhà thơ Đỗ Phủ đời Đường (Trung Quốc) có tới tám bài. Viết về mùa thu, mỗi thi nhân đều có cách riêng của bản thân. Với Nguyễn Khuyến, làng cảnh nước ta nhất là đồng bằng Bắc bộ hiện lên trong chùm thơ thu rất rõ. tiêu biểu vượt trội đặc biệt là trong Thu điếu.
Bài thơ được làm theo thể thơ Nôm Đường luật (thất ngôn bát cú). Hai câu đầu: reviews cảnh câu cá ngày thu, bốn câu tiếp: Cảnh thu ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ, hai câu cuối là tâm sự tác giả.
Bài thơ mở ra thời hạn & khoảng không thẩm mỹ đầy thi vị, đầy ắp không khí làng cảnh vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Ao thu giá lạnh nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Điểm nhìn của nhà thơ từ gần đến cao xa rồi từ cao xa quay về gần. Từ chiếc thuyền câu trên ao thu lanh tanh mà ngó ra, nhìn lên. đặc điểm của vùng quê Bình Lục – Hà Nam, vùng đồng chiêm trũng nên lắm ao. Nhiều ao, thuyền câu có thể trở nên nhỏ nhắn. Điểm nhìn cảnh thu của tác giả thật độc đáo: khác với Thu vịnh, cảnh chiếm được đón nhận từ cao xa tới gần, lại từ gần đến cao xa, còn Thu điếu thì Ngược lại. từ 1 khung ao hẹp, cảnh chiếm được lộ diện theo khá nhiều hướng nhộn nhịp. thời gian không phải là 1 trong những ngày một trong những buổi mà cả một mùa thu. Từ điểm nhìn ấy, nhà thơ quan sát & ghi lại: Cảnh thu rất dị, rất riêng biệt. Cảnh nổi bật hơn hết cho mùa thu làng cảnh việt nam. Nguyễn Khuyến đã chọn các Bức Ảnh rất tiêu biểu vượt trội cho mùa thu xứ Bắc ( Ao thu, gió thu, trời thu) để rồi quan sát cận cảnh với các sóng biếc gợn rất nhẹ, một cái lá vàng rụng theo gió khẽ khàng:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Màu “biếc” của sóng hoà phù hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà long lanh. nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện: “lá vàng” với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay khớp ứng với khoảng độ “tí” của gợn sóng li ty. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ngợi ca chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của chính bản thân mình may ra mới dành được câu thơ ưng ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu”: “vèo trông lá rụng đầy sân”.
Hai câu luận lan rộng khoảng không diễn đạt. bức tranh thu có bổ sung thêm chiều cao của khung trời “xanh ngắt” với “những tầng mây lơ lửng” trôi theo chiều giớ nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt”:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” (Thu vịnh)
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Thu ẩm)
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu)
“Xanh ngắt” là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (xám) mà trong xanh, thăm thẳm. xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như bà con dân làng đã ra đồng hết. Xóm thôn tĩnh mịch. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Cảnh đơn sơ, thanh nhẹ chỉ được phác vẽ bằng đôi nét chấm phá như trong tranh thuỷ mặc: ao thu nước cả và thuyền câu bé tẻo teo, sóng gợn tí & lá rụng vèo, mây lơ lửng giữa khung trời xanh ngắt; ngõ trúc quanh co không bóng người. Tấm hình thơ bình dị, quen thuộc, không những biểu lộ cái hồn của cảnh thu mà còn biểu hiện cái hồn của cuộc sống đời thường ở nông thôn xưa. “Cái hấp dẫn của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh trời, xanh bèo” ( Xuân Diệu).
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Câu 7 tả tư thế người ngồi câu kiên trì, gò bó, Dường như ông đang lắng nghe tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Tiếng cá Dường như có thật nhưng cũng rất mơ hồ, khe khẽ không định vị. Dù hiểu như thế nào chăng nữa thì người câu rõ nét chẳng lưu ý đến chuyện câu cá, được cá hay là không mà đang câu lòng, câu người, đắm ngập trong suy tư, trong lòng trạng. Tâm sự của một nhà nho lánh đời thoát tục tuy nhiên vẫn không nguôi nghĩ về đất nước nhân dân, về việc bế tắc, bất lực của bản thân? Nhàn thân tuy vậy không nhàn tâm, Nguyễn Khuyến không còn từ tốn đi câu như 1 ẩn sĩ thực thụ. Nỗi buồn ấy của Nguyễn Khuyến là đáng quý. Nó giúp ông giữ được nhân cách trụ được đến ngày này. Nỗi buồn ấy đáng để chúng ta ngả mũ nghiêng mình. Ta mới hiểu Lý Do trong bài Di chúc có đoạn ông dặn các con mình:
Việc tống táng lăng nhăng qua quýt
Cúng cho thầy một chút rượu be
Đề vào mấy chữ trong bia
Rằng: quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu
thế cho nên là tình thu ở đây không chỉ là cảm tình với ngày thu mà còn là một tấm lòng gắn bó tha thiết với vạn vật thiên nhiên quê nhà, 1 tấm lòng yêu nước, yêu dân thầm kín nhưng không hề thua kém phần thâm thúy.
Bài thơ là bức họa thu mang vẻ đẹp điển hình nổi bật cho ngày thu, làng cảnh Việt Nam; cảnh đẹp tuy vậy buồn, vừa phản ánh tình yêu nước nhà vừa cho biết thêm tâm sự thời thế của người sáng tác. Thơ thu của Nguyễn vừa có những mặt giống với cách viết về mùa thu trong văn học cổ nhưng có những mặt rất mới : chính là những nét vẽ thực hơn, từ ngữ, Tấm hình đậm hồn dân tộc bản địa.
Bài phân tích 30
Nhắc tới các bài thơ viết về mùa thu nước ta, người ta không còn không nói tới chùm ba thơ thu của nhà thơ “Tam nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến mà “Thu điếu” là bài thơ tiêu biểu vượt trội nhất. Bài thơ không chỉ khắc họa bức họa đồ vạn vật thiên nhiên, làng cảnh Bắc bộ và tâm sự thâm thúy của nhân vật trữ tình mà còn để lại ấn tượng cho những người đọc nhiều thế hệ bởi sự áp dụng phát minh sáng tạo, thành công Bức Ảnh, ngôn từ văn học dân tộc. Ông xứng danh được xem như là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu).
“Ao thu lanh tanh nước trong veo
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
“Thu điếu” là bài thơ Nguyễn Khuyến sáng tác khi đã từ quan về ở ẩn. Đọc bài thơ ta phát hiện các Hình ảnh rất gần gũi vẫn thường gặp ở những vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc bộ: một cái ao thu bé xíu, chiếc thuyền câu cũng nhỏ, các ngõ trúc quanh co… Tình yêu thiên nhiên đất nước, cảm tình gắn bó giành cho quê nhà vốn đã tiếm ẩn trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nay được dịp “bùng nổ” mãnh liệt. Văn thơ Nguyễn Khuyên là sự phối hợp 1 cách thuần thục Một trong những cái tinh hoa của văn học bác học với vản học dân gian được chắt lọc từ ngàn đời của dân tộc bản địa. Văn học dân gian đó là cội nguồn nuôi dưỡng văn học dân tộc bản địa nhưng cũng chính văn học bác học với các tri thức mưu trí, bác cổ đã góp thêm phần rất chi là quan trọng giữ gìn, phát huy sáng tạo văn học, giúp cho văn học dân gian trở nên tân tiến. Sự quay lại Yên Đổ là 1 trong những bước ngoặt quan trọng quyết định trong công danh vãn học của ông. đó chính là sự trở lại với cuộc sống đời thường của nhân dân, hoà mình vào không gian sống, môi trường thiên nhiên văn học vốn gần gụi với ông từ thuở lọt lòng. Nguyễn Khuyến là 1 trong số những nhà thơ khét tiếng viết về nông thôn của văn học dân tộc, một nông thôn VN với đầy đủ các âm thanh & sắc tố đặc thù từ ngàn đời, khác biệt mà thân cận, thân thuộc mà xinh tươi đến diệu kỳ. Trong “Thu điếu”, người ta phát hiện một chủ đề quen thuộc vẫn thường gặp trong dân gian, trong cuộc sống thường ngày bình dị của người lao động: Tấm hình ngư ông, thuyền câu, ao nước. Đó cũng là các Bức Ảnh rất đặc thù của quê nhà ông, vùng đồng bằng chiêm trũng Hà Nam, đặc trưng của vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. trong một không gian nhỏ xíu, bình lặng, bài thơ không gợi nhưng cũng làm hiện lên Tấm hình nhà thơ trong dáng hình của 1 ngư ông – một người nông dân thực thụ. Con người và vạn vật thiên nhiên hài hoà trong bức tranh thu yên bình. Khí thu buồn, ấy là chất thu đặc thù tự ngàn đời và tới thời điểm này, nó lại thường xuyên xuất hiện trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến nhưng để rồi buồn theo điệu buồn của riêng nó, điệu buồn của cảnh và của người ngoạn cảnh. những âm thanh và Tấm hình vốn rất gần gũi của mùa thu lại liên tục được diễn đạt trong sự vận động của dòng nước & nhất là chiếc lá thu:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo’’
Sóng cũng chỉ “Theo làn hơi gợn tí” bởi chắc hẳn rằng vì gió rất nhẹ. Gió nhẹ phù hợp với khí thu & cũng bởi cho khỏi phá tan đi cái bầu không gian yên bình vốn đang xuất hiện từ ngàn đời kia. và trong khung cảnh Hình như tĩnh đến tuyệt vời và hoàn hảo nhất ấy xuất hiện một Hình ảnh rất động, dù chỉ là thoáng diễn ra rất nhanh: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. Thi sĩ Xuân Diệu đã có lần viết: “Cái mê hoặc của bài Thu điếu ở những điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có 1 màu xanh vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. “Diệp lạc tri thu”. xưa nay, nhìn chiếc lá vàng rơi người ta biết mùa thu đang về. mùa thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy. Ông cảm nhận ngày thu qua cái lạnh & tĩnh của làn nước ngày thu, của làn gió thu se lạnh và ông cũng luôn ghi nhớ đem vào đó một chiếc lá thu “khẽ đưa vèo”. Đó là một trong khoảnh khắc diễn ra rất nhanh mà Hình như người ta không chỉ nhìn thấy bằng mắt thường mà còn phải bằng một con tim nhạy cảm thâu tóm lấy cái hồn của tạo vật.
khung trời mùa thu cũng chính là Hình ảnh rất hay được dẫn vào trong thơ Nguyễn Khuyến. Ta đã bắt gặp Tấm hình “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu vịnh”, và “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong cặp mắt của nhân vật trữ tình trong “Thu ẩm” & ở đó là “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. cũng tương tự chiếc lá vàng, bầu trời thu cũng bị một nét đặc thù cho mùa thu nước ta xứ Bắc. bầu trời ngày thu Hình như được đẩy lên, cao hơn, trong hơn nhưng cũng chính vì thế mà sáng & nhẹ nhàng hơn. Khí thu lạnh, bầu trời thu buồn không làm mất đi vẻ đẹp của cảnh vật tương tự như không làm mất vẻ đẹp của bầu trời mùa thu. Nó không nóng bức như ngày hè, không mờ mịt như mùa đông, mà với những áng mây trôi lơ lửng Dường như bầu không khí ngày thu còn khiến khung trời có thể trở nên cao hơn nữa, trong hơn & xanh hơn nữa. Đặt trong khung cảnh như vậy, con phố làng vốn đã vắng tanh nay lại càng trở nên vắng tanh, quạnh quẽ hơn. không tồn tại chút bóng hình của con người. Chỉ có Bức Ảnh ngư ông được hiện lên từ trong câu chữ để cho “Thu điếu” gần như biến thành một bài thơ dành trọn vẹn cho bức họa đồ ngày thu. Nhà thơ vào vai một ngư ông nhưng rồi một cách không cố ý lại biến mình thành người ngoạn cảnh, để rồi, thu vào tầm mắt toàn bộ hồn cốt của mùa thu Bắc Bộ. Người say sưa ngoạn cảnh bởi có tình yêu đối với vạn vật thiên nhiên, quốc gia sâu sắc, bởi ngày thu xứ Bắc đẹp, thanh bình & lôi cuốn lòng người và cũng bởi người ngoạn cảnh trong tâm địa đang có không ít tâm trạng, hoà mình với thiên nhiên, đó cũng là bởi, người đi câu cá nhưng lại là “đi câu” sự thanh thản trong lòng hồn. Bài thơ mang tựa đề “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) nhưng mãi đến cuối bài thơ mới xuât hiện người đi câu:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá dâu đớp động dưới chân bèo”
Tấm hình con người nằm ở trong tư thế bất động, như chạm khắc vào thiên nhiên, hài hoà với thiên nhiên thành một khối thống nhất, tĩnh lặng. Người đi câu để ý với suy tư của mình tới mức có vẻ như quên mất rằng mình đang đi câu. Chỉ đến khi tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” mới khiến cho ngư ông chợt tỉnh, kéo ông quay lại với hiện thực. Chỉ là 1 trong những tiếng cá đớp động dưới chân bèo nhưng lại đủ sức kéo con người quay về với hiện thực chứng tỏ bức họa thu đó phải tĩnh lặng lắm & con người lòng cũng đang rất nhiều tâm sự. đó là tâm sự thầm kín của 1 người luôn nặng trĩu suy tư về quê hương, giang sơn, về trọng trách của chính mình so với quê nhà giang sơn mình. Người đã nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc thời điểm ngày hôm nay.
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”.
“Câu cá mùa thu” là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. phong cảnh ngày thu quê nhà được diễn đạt bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế và sắc sảo quyến rũ. Bài thơ dựng lên bức họa thiên nhiên đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc bộ với nhiều nét thanh bình, những ấn tượng về một ngày thu đẹp & buồn. Nguyễn Khuyến đã rất tài tình trong công việc vận dụng từ ngữ “lạnh, lẽo, trong xanh, bé tẻo teo” gợi tả đường nét, dáng hình, sắc tố của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa “vèo” trong làn gió thu, tiếng cá “đớp động” chân bèo – đó là tiếng thu dân dã rất gần gũi của đồng quê đã khơi gợi trong tâm địa tất cả chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê nhà đất nước. các hình ngữ điệu đầy sức gợi đó không những chứng tỏ cho có tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ của Nguyễn Khuyến mà còn góp thêm phần làm nên một bức họa đồ mùa thu viết về làng cảnh nước ta rất đặc biệt, thật buồn & cũng thật đẹp.
Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên ngày thu, yêu cảnh quan đồng quê với cả tình quê nồng hậu. ông là nhà thơ của làng cảnh nước ta. Đọc “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”, chúng ta yêu thêm ngày thu quê nhà, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đát nước. Với Nguyễn Khuyến, tả ngày thu, yêu ngày thu đẹp cũng là yêu quê hương giang sơn. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một vị thế quang vinh trong nền thơ ca cổ điển VN.
Bài nghiên cứu 31
ngày thu là mùa của lá vàng rơi, là mùa rất dễ khiến con người ta xao động. đặc biệt là đối với tâm hồn tinh tế và sắc sảo và nhạy cảm như nhà thơ Nguyễn Khuyến, mùa thu lại càng trở nên xuyến xao hơn. Ông từng viết cả chùm thơ về mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Mỗi bài đều mang những tâm tư nguyện vọng, tình cảm rất cá tính của thi nhân. trong đó, Thu điếu biểu thị tình yêu chân thành & đơn sơ, giản dị và đơn giản của người sáng tác qua vẻ đẹp ngày thu ở làng quê VN.
Nguyễn Khuyến đã thả hồn mình vào vạn vật thiên nhiên, vào cảnh thu:
Ao thu lạnh ngắt nước trong xanh
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
rất có thể thấy cảnh sắc mùa thu ở đây rất êm đềm, nhẹ nhàng & yên bình. Mọi thứ đều đang nằm trong tầm ngắm của nhà thơ. chính vì vậy, mỗi câu thơ đều ôm trọn cảnh thu. Nhưng tiếc rằng mùa thu không tỏa nắng rực rỡ, không nhộn nhịp như ngày hè, cũng không mơn mởn những chồi non như mùa xuân. mùa thu nóng bức nước trong xanh, một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng cũng chỉ kín tiếng lặng thầm theo làn hơi gợn tí. toàn bộ thường rất nhịp nhàng nhưng lại gợi nỗi buồn xa xăm. phù hợp trong cảnh thu ấy còn chất chứa nỗi niềm của thi nhân? Nguyễn Khuyến là kẻ có tài, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dần, từng bày tỏ thái độ nhất quyết chưa phù hợp tác với chính quyền thực dân. Thơ ông phản ánh cuộc sống thường ngày của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, những tầng lớp thống trị, đồng thời thể hiện tấm lòng ưu ái so với dân, với nước. bởi thế, mùa thu trong Thu điếu đó là những nỗi niềm riêng tư của nhà thơ đối với tình cảnh cộng đồng đương thời. Ông không chọn ngày xuân với những hoa mai hoa đào tỏa nắng rực rỡ cho vần thơ thêm nhạc điệu, thêm vui tươi. Ông cũng không chọn cái nắng hè chói chang gay gắt trên những chùm hoa gạo của mùa hạ để đem vào thi ca. Ông hòa tâm hồn vào ao thu, vào các chiếc Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Lá vàng là Tấm hình úa tàn và đặc trưng của mùa thu. Lá vàng cũng thường gợi đến một khung cảnh buồn bã, có chút tiếc nuối bâng khuâng.
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Lại thêm 1 blue color nữa ngập tràn trong trang thơ của thi nhân. Trời mây xanh ngắt với những tầng mây lửng lơ trôi mang theo những nỗi niềm khó nói thành lời của lòng người đang băn khoăn nghĩ suy về thời thế. Ông ngước lên cao, rồi lại cúi xuống nhìn Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. mùa thu im re, thôn quê lại càng lặng ngắt hơn. Đã thế, cách gieo vần “eo” của tác giả lại càng khiến cho khoảng không dần thu hẹp lại.
Trong khung cảnh ấy, thi nhân đóng vai là một lão nông đang tựa gối buông cần nhưng lâu chẳng được. và ông nhận thấy rằng Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Âm thanh độc tôn trong toàn bộ bải thơ vang lên, tưởng như âm thanh ấy sẽ phá tan sự im re của không gian, nhưng chính nó lại nhấn mạnh thêm sự im lìm của cảnh vật. tác giả lấy tĩnh tả động và ông đã thắng lợi khi rót sự im re vào lòng người bằng một âm thanh rất nhỏ.
Nhưng ý nghĩa nâng cao đằng sau tiếng cá đớp động dưới chân bèo là những tâm sự thầm kín của nhà thơ. Ông đã chiếm hữu cả đời mình cống hiến cho triều đình, cho non sông, cả đời đi theo tiếng gọi của chân lý, chưa một lần làm điều mờ ám hay bị dính án quan liêu. thế cho nên, tâm hồn Nguyễn Khuyến cũng xanh ngắt như nước trong ao thu, & cũng tĩnh lặng như mọi cảnh vật thiên nhiên ông đang chiêm ngưỡng và ngắm nhìn.
người sáng tác câu cá nhưng bản chất tâm trí lại không hề để ý tới cần câu, đó chỉ là cái cớ để ông nghĩ suy tới thời thế và quốc gia. trong khi triều đình còn nhiều tham quan du lịch, ông không thể nào một mình đứng ra để loại trừ được hết các vấn nạn đó được. vì thế, ngày thu của Nguyễn Khuyến đã ra mắt theo chiều sâu tư tưởng phảng phất buồn, theo các nỗi niềm sợ hãi thầm kín. điều ấy đã biểu lộ tấm lòng yêu nước sâu sắc của thi nhân. Ông muốn góp sức hết mình cho nhân dân, cho tổ quốc.
tất cả bài thơ diễn đạt cảnh thu nhưng các từ ngữ, các Tấm hình trong đó lại ẩn chứa tâm tình của người sáng tác. Ông lấy tĩnh tả động, lấy cảnh tả tình. Dù không một lời trực tiếp nói lên nỗi lòng mình nhưng người đọc vẫn hiểu rõ sâu xa tình cảm của thi nhân. Bài thơ đã đưa đến cho nền văn học non sông một ngày thu rất mới, mua thu theo cách riêng của Nguyễn Khuyến.
Bài nghiên cứu và phân tích 32
ngày thu đã đi đến rất nhiều các vần thơ & bức vẽ tuyệt đẹp của người nghệ sĩ. mùa thu với một chút ít nhẹ nhàng, thơ mộng & đầy sexy nóng bỏng. những nét trẻ đẹp của sắc thu có lẽ rằng chính vì như vậy mà dễ thâm nhập vào tâm hồn con người và gợi lên những cảm xúc chân thật nhất. Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã và đang gói mùa thu vào vào những sáng tác của chính bản thân mình mà tiêu biểu vượt trội là chùm thơ thu nổi tiếng với ba bài: Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm. Mỗi bài đều có cái hay, cái đẹp riêng nhưng bài “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) có một sức hút mãnh liệt như Xuân Diệu đã có lần khẳng định “Điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. “Thu điếu” không chỉ gợi lên sắc đẹp nhẹ nhàng của ngày thu mà từng câu từng chữ của bài thơ còn là một lòng yêu quê hương, tổ quốc thiết tha.
“Câu cá mùa thu” là một trong sáng tác nổi tiếng Nằm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, cùng với Thu ẩm, Thu vịnh tạo thnahf bộ ba để đời của nhà thơ. Sáng tác đó được ông viết khi đã rời khỏi chốn quan trường về que eowr ẩn. Chính tình yêu quê hương & vạn vật thiên nhiên sâu đậm đã hỗ trợ ông viết lên được những vần thơ đẹp lung linh đến vậy.
Bằng thể thơ Thất ngôn bát cú cùng theo với ngữ điệu bình dị nhưng tinh tế, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên mọt bức họa đồ thu với các vẻ đẹp tuyệt của đất trời. khởi đầu bài thơ xuất hiện thêm một khoảng không bao la, xanh thẳm.
Ao thu nóng bức nước trong xanh
mùa thu, mặt nước dềnh dàng, bình lặng. Nó không còn kinh hoàng và xối xả với các trận mưa rào mùa hạ. những ao, những hồ tràn đầy nước. chính vì sự yên bình của con nước mà mặt hồ như trong hơn. Người ta có thể nhìn thấy vào trong trái tim nước, xuống tận đáy hồ và cam rnhaanj màu xanh mát của những đám rêu đang đeo bám. có lẽ rằng, người sáng tác viết bài thơ này khi đã sang nửa sau của mùa thu. những cơn gió heo may tràn về, đem theo cái không khí se lạnh đặc thù của cuối thu. Giữa dòng nước bát ngát ấy, các cơn gió thổi qua càng làm ta thêm phần lạnh lẽo. Mọi thứ cứ nhẹ nhàng, yên ả trên mặt hồ lan tăn gợn sóng li ty. và cái không gian yên ắng ấy càng làm trông rất nổi bật lên một sự chuyển đọng dù chỉ là rất nhỏ.
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Giữa mặt hồ bát ngát ấy có mặt một sự sống của con người. tuy vậy, chính sự rộng lớn của thiên nhiên mà chiếc thuyền câu càng có thể trở nên nhỏ bé. Nhà thơ dùng số từ “một” để chỉ cái ít, cái đơn chiếc, đã vậy lại còn thêm cụm từ “bé tẻo teo” như để nhấn mạnh vấn đề lên sự đơn độc, hiu quạnh. có vẻ như, trên chiếc thuyền ấy, nhà thơ đang 1 mình kề bên cần câu. Mình ông đơn độc giữa mặt hồ rọng lớn. Ông đắm chìm vào thiên nhiên để tận hưởng toàn vẹn sắc đẹp vô tận của vạn vật thiên nhiên. chỉ từ hai câu thơ, với các nét vẽ đơn giản dễ dàng cũng đủ để người đọc hiểu được phần nào tâm tư của người thi sĩ trước vẻ đẹp của ngày thu, của đất trời.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
tại chỗ này, đã ban đầu có sự chuyển động. những cơn gió kéo đến làm mặt nước lăn tăn, tí tách theo tia nắng mặt trời trông thật đẹp mắt. Gió không quá mạnh, không thực sự to các cũng đủ để dòng nước bình yên kia khẽ đưa mình đung đưa. Trên những vòm cây bên bờ, lá đã vàng, vàng theo sắc màu mơ mộng của ngày thu. Cơn gió đến, lá cũng hòa mình đi theo. một cái lá rơi xuống, bé bỏng nhưng sao lại gây chú ý đến như thế. chắc hẳn rằng, vì khoảng không yên ắng và thanh thản quá nên chỉ một âm thanh nhỏ cũng đủ để ai cũng cần phải ngước nhìn. Chữ “vèo” được nhà thơ sử dụng thật đắt giá. Nó nhanh, mạnh & dứt khoát.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
phong cảnh mùa thu đã được rộng phủ ra rộng hơn, cao hơn nữa và xanh thẳm hơn. bầu trời xanh ngắt với những đám mênh trắng bồng bềnh đang âm thầm nhích từng bước đi. Sắc xanh của mặt nước xanh ngắt, của bầu trời trong xanh cùng màu vàng ươm thơ mộng của các chiếc lá đã tạo nên một bức họa đồ thu đẹp tuyệt vời. tuy nhiên, giữa sắc đẹp vô tận của vạn vật thiên nhiên, khong gian vẫn yên ắng quá. Con người chẳng thấy đâu, vắng teo, hịu quạnh. Một không khí sao bình yên đến lạ lùng.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Người thi sĩ “tựa gối ôm cần” trong phong thái ung dung, tự tại. Ông đã hòa mình vào với thiên nhiên bằng tất cả các xúc cảm bình yên & niềm hạnh phúc. Hình như, chiếc thuyền câu ấy ra hồ không hẳn vì mục đích câu được rất nhiều cá mà chỉ là đi chiêm ngưỡng núi sông, cây xanh. Người đâu Để ý đến việc cá có ăn mồi & cắn câu hay là không. Ông mãi đắm chìm vào vạn vật thiên nhiên, mải thả hồn để quên đi các muộn phiền của cuộc sống thường ngày để rồi bất chợt nhớ đến chiếc cần câu, âm thanh bé bỏng của cá cũng đã làm ông giật mình và bừng tỉnh.
như vậy với ngôn từ thơ mộc mạc, gần gũi, Nguyễn Khuyến đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức họa đồ phẳng lặng, mơ mộng trong 1 buổi chiều câu cá ngày thu. qua đó, gợi lên tâm thế thảnh thơi và tình yêu thiên nhiên, quốc gia sâu đậm của 1 vị quan lỗi lạc nhưng không gặp thời.
Bài nghiên cứu 33
Làng cảnh việt nam lúc đất trời vào thu đẹp một sắc đẹp thanh sơ, bình dị mà thật nên thơ, nhưng không mấy ai đưa được vẻ đẹp ấy vào thơ 1 cách thân tình như Nguyễn Khuyến. Cũng chẳng mấy ai nói được tình cảm bình dị mà lắng sâu của con người việt với làng xóm quê nhà như ông. nói đến Nguyễn Khuyến, người yêu thơ luôn luôn nhớ được chùm thơ của ông viết về mùa thu như một chùm hoa đẹp có hương sắc lâu bền, trong số ấy bài Câu cá mùa thu được coi là 1 trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến. Bài thơ có sự hòa hợp giữa cảnh vạn vật thiên nhiên thanh sơ của nông thôn êm đềm, tĩnh mịch vào tiết thu với tâm trạng thời thế kín kẽ của thi sĩ
Nhan đề bài thơ là Câu cá mùa thu nhưng mục tiêu không ở việc kiếm cá ăn; câu cá chỉ là cái cớ để tiêu sầu và cảm nhận hương sắc ngày thu. còn điều gì hấp dẫn hơn được ngồi câu cá giữa một vùng phong cảnh rất gần gũi của quê hương mình, để hồn thu thấm vào hồn người. Lúc Nguyên Khuyến viết bài thơ này, gót giày quân xâm lược Pháp đã bỏ lên trên nhiều nơi trên tổ quốc, xã hội thuộc địa đã được lập nên ở vài đô thị. Nhưng làng quê việt nam, làng quê nghìn đời của Nguyễn Khuyến vẫn giữ được vẻ đẹp thanh sạch, giản dị và đơn giản, thướt tha như cô bé chân quê xứ Bắc với “ cái áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen”. Nguyễn Khuyến đi câu cá là để tắm mình trong không gian nguyên sơ ấy của mùa thu quê hương cho khuây khỏa nỗi thương đau trong thâm tâm.
“Ao thu lạnh giá nước trong veo
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
Bài thơ mở ra thời gian & không gian nghệ thuật đầy thi vị, đầy ắp không khí làng cảnh vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì đi câu cá nên điểm xuất phát của cảm giác là chiếc “ao thu”. Ao là một Hình ảnh thân thuộc, gần gũi, bình dị ở làng quê xứ Bắc. Nguyễn Khuyến chọn ao thu để khơi nguồn thi hứng, vì chính là điệu tâm hồn ông: thân mật, chân thành, bình dị, vô cùng gắn bó với làng quê. Chiếc ao thu trong tấm lòng yêu thương & rung cảm thẩm mĩ của Nguyễn Khuyến đẹp và gợi xúc cảm như 1 tác phẩm mĩ thuật. Chiếc ao thu ấy “ lạnh lẽo” một cách đầy chất thơ. Gió thu đã đưa đi heo may về và ban phát cho vạn vật của ngày thu làm cho nó đáng yêu và dễ thương hơn.
Từ sự nắng nóng oi tức giận của mùa hè chuyển hẳn qua cái se lạnh của heo may mới thật là thi vị. Đã vắng những trận mưa rào xối xả của mùa hạ, nước trong ao thu thấm cái nóng bức của heo may mà lắng trong đến độ như được tinh lọc, trong như vắt “ trong veo” đến tận đáy. bên trong cái tiếng “ trong veo” đặt tại cuối câu thơ như có niềm rung cảm yêu thích. Trời hôm ấy lặng gió và rất nhiều nắng, rất sáng, nước trong ao mới có độ “ trong veo” như vậy. mới chỉ nói nước thu (thu thủy) mà ta đã nhìn thấy trời thu, nắng thu, gió thu. Độ hàm súc, sự tinh tế và sắc sảo trong cách dùng từ của Nguyễn Khuyến cũng thật đáng nể. Trước mắt người đọc là một trong khoảng không gian ngày thu trong trắng và tĩnh lặng vô cùng.
Hiện lên trên khuôn “ ao thu”, giữa không khí thu “ lạnh lẽo” ấy là “ một cái thuyền câu bé tẻo teo”. Người đi câu không ngồi trên bờ mà ngồi trên chiếc thuyền câu để buông câu chính là để mở góc nhìn khoảng không thu cho rộng ra. Ao thu chắc không thể to lắm, cho nên chiếc thuyền câu cũng phải “ bé tẻo teo”. chính là chiếc thuyền thúng quen thuộc ở vùng quê Bình Lục, chiếc thuyền chỉ đầy đủ cho một người ngồi, vừa đủ để gọi là “ thuyền”, nhỏ hơn chút nữa thì thành cái thúng! từ thời điểm cách đây non một thế lỉ người ta thấy rất nhiều chiếc thuyền thúng như thế len lỏi giữa xóm làng của Hà Nam, nước lụt mênh mang “ Bóng thuyền thấp thoáng vừa trên vách – Tiếng sóng lung linh vỗ trước nhà” ( Nguyễn Khuyến, Vịnh lụt).
Ngồi trên chiếc thuyền giữa ao thu nên nhiều vẻ đep của ngày thu dễ đến trong khoảng nhìn của thi sĩ.
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai câu thực là cảnh trong vòng nhìn gần ( cận cảnh). Trong ao nhỏ có sóng, có gió nhưng rất nhỏ, rất nhẹ và và rất đẹp. “Sóng biếc” nghĩa là “sóng xanh”; sóng theo gió nhẹ chỉ “ hơi gợn” trên bề mặt ao thành hình, “lá vàng” cũng theo gió “ khẽ đưa” thành tiếng. Cả hình & tiếng đều cực nhỏ. Cuối hai câu thơ, Nổi dậy hai từ đối nhau: “ tí”, “ vèo”- một từ nói lên cái cực nhỏ của hình khối, một từ mô tả sự cực nhỏ của âm thanh, người đọc còn nhận dạng được chiếc lá với hình dài thon nhọn, nhẹ và nhỏ: chiếc lá tre, lá trúc đang xoay xoay mà liệng xuống. không gian động mà tĩnh, hữu thanh mà vô thanh. các làn sóng hơi gợn, âm thanh mơ hồ của chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” như xao động trong cõi lòng cũng tĩnh lặng như làng quê, ngày thu của thi sĩ.
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
khoảng không thẩm mỹ đột ngột mở lên chiều cao và xuất hiện hướng trước mặt. Trên cao là trời thu cao xanh, trước mặt là đường làng ngõ xóm mùa thu quanh co, đìu hiu. Trong cảm nhận của Nguyễn Khuyến, da trời ngày thu có màu “ xanh ngắt” rất khơi gợi, cái màu xanh liền một khối tinh khiết, thăm thẳm, làm cho những ai ngẩng mặt lên ngắm trời thu đềucó cảm xúc mông lung, huyền ảo, vời vợi. Nhờ có “ tầng mây lơ lửng” bên dưới mà nhận biết “ trời xanh ngắt” phía bên trên. Đó là 1 trong những nét thân thuộc thi pháp cổ điển: lấy điểm tả diện.
Đang vào vụ thu, người ra đồng làm lụng nên đường làng ngõ xóm yên lặng. Thảng hoặc có người thì cũng bị cái quanh co của ngõ trúc che khuất. Thành thử khoảng không im re đên tuyệt đối: “vắng teo”!
ở 2 cặp câu thực và luận có đủ sóng gió, trời, mây, có sắc tố, âm thanh, Hình ảnh, có chuyển động, …Nhưng mỗi từ ngữ trong bốn dòng thơ ấy đều gợi cho ta phải đọc bằng giọng êm dịu, nhẹ nhẹ. Âm hưởng bốn dòng thơ nhẹ êm như hơi thở.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá dâu đớp động dưới chân bèo
Đến đây chủ thể trữ tình mới có mặt, có mặt trong tư thế ngồi bất động “ tựa gối ôm cần” – tư thế co lại, như thu nhỏ mình lại để giảm bớt diện tích S tỏa nhiệt tránh cái” lạnh lẽo” giữa ao thu. Ngồi như thế cũng là để ngồi cho lâu, cho khỏi phải chuyển đổi tư thế làm mất đi cái tĩnh lặng trong cõi lòng đang mải suy tư & khỏi đứt đi “dây tơ” vô hình đang giăng mắc trong không gian mùa thu làng quê êm đềm, bởi vì “ không gian như có dây tơ – bước đi sẽ dứt, động hờ sẽ tiêu” ( Xuân Diệu).
Nguyễn Khuyến muốn ngồi trong tĩnh lặng mà trầm tư mặc tưởng, gắn cái đơn độc trống trải của lòng mình vào cái cô tịch, trong trẻo của ngày thu làng quê. thực tế khi lấy cớ đau mắt nặng để cáo quan về hưu ẩn dật, Nguyễn Khuyến đã mang nặng mặc cảm bất lực trước thời cuộc. Trong bài thơ Di chúc, ông có những câu thơ đau đáu đến từng chữ.
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.
cho nên vì thế, thấm đẫm trong Thu điếu là tâm sự rối bời trước thời thế của ông, ôm cần buông câu để tiêu sầu mà mối sầu càng đọng lại trong tư thế bất động, thấy chiếc “ lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” mà thảng thốt thấy thời thế biến đổi quá nhanh, quốc gia đã rơi vào cảnh tay giặc mà mình chẳng thể làm cái gi để báo đền ơn vua, nợ nước.
Bài thơ kết lại trong cái thảng thốt khi trong im lặng bỗng có tiếng cá “ đớp động dưới chân bèo”. Chữ “đâu” được sử dụng thật thần tình, nó như cái giật mình thảng thốt, lại như cái ngơ ngác kiếm tìm của người mất phương hướng. Ba phụ âm đầu hữu thanh trong ba từ “ đâu đớp động” làm rung động câu thơ, rung động cả tâm hồn người đang mải suy tư. Dù chỉ là rung động mơ hồ (có mà như không) cũng đủ khiến cho không gian ngày thu lắng lại tĩnh rất chi là. Đó cũng là một nét thi pháp rất gần gũi của thi pháp: lấy động tả tĩnh.
Tiếng Việt trong Câu cá mùa thu ở độ kết tinh, đơn giản và giản dị, trong trắng, sắc sảo,uyển chuyển, có khả năng diễn đạt các biến thái phức tạp của sự vật, nững uẩn khúc không dễ giãi bày tâm trạng. Vần “eo” là “ tử vận”, oái oăm rất khó theo, đã được Nguyễn Khuyến dùng một cách thần tình để diễn tả uẩn khúc của tâm tư nguyện vọng.
“Câu cá mùa thu” mang lại sắc đẹp giản dị, thanh sơ của mùa thu làng quê Việt Nam; sắc đẹp của con tim Nguyễn Khuyến: trong sáng, bình dị, tinh tế & chân thành, rất gắn bó với các gì thuộc sở hữu quê nhà & dân tộc…Đó là những gì đã làm cho bài thơ Câu cá ngày thu sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc.
Bài nghiên cứu 34
Trong văn học việt nam ngày thu luôn là đề tài cuốn hút những nhà văn nhà thơ. đặc biệt trong số đó có nhà thơ Nguyễn Khuyến, trong vô số nhiều các sản phẩm thực tế của ông không hề không nhắc tới bài thơ Câu Cá ngày thu. Ở ngay nhan đề của bài thơ và xuất hiện ngay nội dung chính nhưng nội dung chính lại không lấy việc câu cá làm mục tiêu chính mà đó chỉ là cái cớ để người sáng tác tô đậm thêm mùa thu mà thôi. Nguyễn Khuyến đã sử dụng hết những giác quan của mình để cảm nhận ngày thu của đất Bắc.
khởi đầu bài thơ theo thơ được tác giả đã nêu ra khoảng không của bài thơ chính là “ao thu”.
“Ao thu lạnh giá nước xanh ngắt,
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
tác giả đã lưu lại một khoảng thời gian chính là mùa thu trên cái ao nhỏ tại 1 vùng quê gì đó. tiếp đến ông lại cảm nhận được tính chất: “lạnh lẽo”, “nước trong veo”. mùa thu lúc nào cũng mang về cho con người ta cảm thấy hơi se lạnh nhưng lại sở hữu cảm xúc rất chi là dễ chịu hơn so với ngày hè nóng bức kéo dãn. Cái lạnh của ngày thu rất dễ khiến cho lòng người trào dâng đến cảm xúc nồng dịu & chính người sáng tác đã nhận ra. Vả lại ngoài cái lạnh còn có một đặc điểm là mặt nước trong hơn những mùa khác. mùa thu trên bề mặt ao yên ả khiến người sáng tác cảm nhận thấy nước trong hồ trở nên xanh ngắt hơn nhưng một cái gương. phía trên mặt nước ấy có mặt một “chiếc thuyền bé tẻo teo”. người sáng tác đã sử dụng từ ngữ vô cùng khéo léo để cho người đọc cảm nhận được sự nhỏ bé của chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Âm “eo” là từ vô cùng khó để gieo vần nhưng người sáng tác & để cho ta cảm nhận thấy đoạn thơ rất chi là cho trôi chảy thoải mái và tự nhiên. VN có vô vàn những con sông lớn, hồ lớn như Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, sông Hồng… mà các nhà thơ xưa vẫn luôn lấy làm đề tài để sáng tác. Vậy mà Nguyễn Khuyến lại lựa chọn một cái ao nhỏ không tên ở 1 vùng quê nhỏ hẻo lánh. Nhưng chính vì thế lại làm cho ta cảm nhận thấy có cái gì đó rất gần gũi gần gụi bình dị. phải chăng chính là Lý Do để cho ông cả con tim mình vào để cảm nhận ngay từ các cái tưởng chừng quá không còn xa lạ kia
Để vẽ nên bức họa nông thôn nhỏ bé rất gần gũi này, trên ao nhỏ có một cái thuyền nhỏ đã tạo sự một bức họa mang Tấm hình thăng bằng hài hòa và hợp lý. Nhà thơ lúc này đang ngồi trên một chiếc thuyền câu như vậy một cái ao như vậy hoặc cũng chính là nhà thơ đã tình cờ nhìn thấy người câu cá. Nhưng dù là gì thì nhà thơ cũng đã nhận được ra nhiều sắc đẹp ẩn giấu của ngày thu. không chỉ là mặt nước, thuyền câu, Nguyễn Khuyến còn có các quan sát sắc sảo tới các điều nhỏ nhắn khác:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
ở 2 câu tiếp theo người sáng tác quan sát “sóng” trên ao và bao quanh “lá vàng” đung mang đi gió. đấy là các Tấm hình tưởng đơn giản và dễ dàng thông thường nhưng ở cuối hai câu thơ tác giả khi cho những người đọc bỗng ngỡ ra bởi hai từ đối nhau:”tí”,”vèo”. đây là các từ rất chi là đặc biệt quan trọng một từ nói lên sự cực nhỏ của hình khối, từ sót lại mô tả cực nhỏ và nhanh của âm thanh. tác giả khiến cho những người đọc cảm nhận được qua từng cấp độ”hơi gợn tí”,”khẽ đưa vèo”. Nếu ở 2 câu trước tác giả nói lên các khung cảnh gần thì đến hai câu luận tác giả lại hướng ra xa hơn một chút
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
đó là khung trời trong xanh của ngày thu. blue color là màu đặc thù của mùa thu với những đám mây tầng các tầng lớp lớp lơ lửng trước nền xanh của khung trời. Để cảm nhận được hết những vẻ đẹp của chính nó thì phải là người có con mắt tinh tế và sắc sảo, sự quan sát tinh tường của nhà thơ. Nguyễn Khuyến lại hướng nhìn về làng ngõ xóm vốn đã yên tĩnh vắng ngắt lại càng thấy hiu quạnh hơn khi “khách vắng teo”. Ít người đi lại mà nếu có thì cũng bởi cái ngõ quanh co không nhìn thấy bóng người.
bức họa mùa thu có bốn câu thơ tuy có dáng hình có sắc tố có âm thanh nhưng toàn bộ đều hệt như một làn gió nhẹ hơi thở nhẹ của mùa thu. Đến hai câu thơ kết ta mới lý giải được địa điểm của tác giả trong khung cảnh ấy. Nếu Chưa hẳn đang ngồi trên chiếc thuyền nhỏ câu cá và với tư thế ngồi đó thì làm sao tác giả hoàn toàn có thể viết lên cảnh ngày thu sống động như thế. Hai câu thơ cuối tác giả xuất hiện không như sáu câu thơ trên không một bóng người thì người sáng tác đã khiến cho người đọc rất chi là bất thần bởi tư thế câu cá của ông:
”Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Tư thế tựa gối làm cho ta cảm thấy sự chờ đón của tác giả suốt cả một khoảng thời gian dài để trầm tư, tự thưởng thức cảnh sắc chứ Chưa hẳn chỉ đơn thuần là câu cá. Cứ ngỡ như người sáng tác đã quên mình đang câu cá để thả hồn vào thiên nhiên nhưng chính bởi: “lâu chẳng được” đã chính tỏ người sáng tác vẫn đang chờ đợi cá đớp mồi. Dù phải chờ đợi rất mất thời gian nhưng người sáng tác không tỏ ra sốt ruột. Câu thơ cuối “Cá đâu đớp động dưới chân bèo” âm thanh cá đớp mồi làm cho cả bài thơ khẽ rung động. phải chăng đây là cái rung động mơ hồ đáng quý khiến cho người sáng tác mong chờ để hoàn toàn có thể chứng kiến khoảng thời gian rất ngắn không nhiều này.
bức họa đồ ngày thu của Nguyễn Khuyến được ông biểu đạt bằng những từ sắc sảo & đường nét hồn nhiên cuốn hút người đọc. Bài thơ xứng đáng là một bài thơ vượt trội về làng cảnh VN vì nó đem đến cho ta nhiều cảm nhận mớ lạ và độc đáo về quê hương bình dị nhưng thân thuộc.
hi vọng tổ hợp các bài nghiên cứu trên về bài thơ Câu cá ngày thu của tác giả Nguyễn Khuyến hoàn toàn có thể đem lại cho bạn đọc nhiều ánh nhìn, tương tự như cảm nhận sâu sắc hơn về bài thơ. Bpackingapp.com chúc những bạn học tập thật tốt!
Read More: <a href=
![]() |
Notes is a web-based application for online taking notes. You can take your notes and share with others people. If you like taking long notes, notes.io is designed for you. To date, over 8,000,000,000+ notes created and continuing...
With notes.io;
- * You can take a note from anywhere and any device with internet connection.
- * You can share the notes in social platforms (YouTube, Facebook, Twitter, instagram etc.).
- * You can quickly share your contents without website, blog and e-mail.
- * You don't need to create any Account to share a note. As you wish you can use quick, easy and best shortened notes with sms, websites, e-mail, or messaging services (WhatsApp, iMessage, Telegram, Signal).
- * Notes.io has fabulous infrastructure design for a short link and allows you to share the note as an easy and understandable link.
Fast: Notes.io is built for speed and performance. You can take a notes quickly and browse your archive.
Easy: Notes.io doesn’t require installation. Just write and share note!
Short: Notes.io’s url just 8 character. You’ll get shorten link of your note when you want to share. (Ex: notes.io/q )
Free: Notes.io works for 14 years and has been free since the day it was started.
You immediately create your first note and start sharing with the ones you wish. If you want to contact us, you can use the following communication channels;
Email: [email protected]
Twitter: http://twitter.com/notesio
Instagram: http://instagram.com/notes.io
Facebook: http://facebook.com/notesio
Regards;
Notes.io Team