Notes
![]() ![]() Notes - notes.io |
nghiên cứu và phân tích bài thơ Câu cá ngày thu của Nguyễn Khuyến. Dành khuyến mãi ngay bạn đọc 34 mẫu nghiên cứu bài thơ Câu cá ngày thu hay nhất do Bpackingapp.com tổng hợp nhé!
nghiên cứu và phân tích bài thơ Câu cá mùa thu 1
Nguyễn Khuyến là người có cốt cách thanh cao và giàu lòng yêu nước, ông một lòng không phù hợp tác với địch thủ. Ông được ca tụng là “nhà thơ của dân tình, làng cảnh Việt Nam”. Ông để lại cho hậu thế nhiều sản phẩm thực tế thơ hay và đặc biệt là chùm ba bài thơ thu điển hình nổi bật cho làng quê, cảnh quan nước ta. trong các số đó nổi bật hơn hết là bài Câu cá mùa thu.
nếu như ở bài Thu vịnh cảnh chiếm được đón nhận từ cao xa rồi mới đến gần thì bài Câu cá ngày thu khung cảnh thiên nhiên mùa thu lại được đón nhận tại 1 chiều kích khác: từ gần rồi tiến ra cao xa và từ cao xa quay trở lại gần. Khung cảnh được xuất hiện thêm với rất nhiều khunh hướng rất chi là tấp nập.
Cảnh chiếm lĩnh được xuất hiện với Tấm hình khoảng không rất là trong trẻo:
Ao thu lạnh buốt nước trong xanh
một cái thuyền câu bé tẻo teo
không gian mùa sở hữu được gợi nên từ sự dịu nhẹ, nguyên sơ nhất của cảnh vật với làn nước trong veo, không một gợn đục. mùa hè đã trải qua, các cơn mưa lớn với dòng nước đỏ đục đã mất thay vào đó là cái thanh tĩnh, trong trẻo của dòng nước, của cảnh vật. Trong không gian nhỏ hẹp ấy là Tấm hình của chiếc thuyền câu nhưng nó không thể lọt thỏm giữa khoảng không thiên nhiên mà lại rất hài hòa, phù hợp. tác giả vẽ ra khung cảnh tưởng chừng như đối lập ao thu – thuyền câu, nhưng kì thực chúng lại hòa quyện với nhau đến kì lạ. Bởi vật người sáng tác chọn là ao thu chứ Chưa hẳn hồ thu – gợi cảm giác to lớn, choáng ngợp. Ao thu ấy khi có thuyền câu lân cận có thể trở nên hợp lý, cân xứng & đậm màu khung cảnh làng quê Bắc Bộ việt nam. Hai câu thơ đầu gieo vần eo nhưng không còn gợi lên cảm xúc chật chội, bé xíu, tù túng mà trái ngược gợi nên cái bé nhỏ, thanh thoát của cảnh vật.
bức họa đồ thu liên tiếp được Nguyễn Khuyến phác họa ở cặp câu thơ tiếp theo:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
các đường nét của khung cảnh cũng rất là mảnh mai với sóng hơi gợn tí, lá khẽ đưa vèo, Hình như mọi vận động đều vô cùng nhẹ nhàng, thanh thoát. vận dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh Nguyễn Khuyến đã làm rất nổi bật sự tĩnh lặng hoàn hảo và tuyệt vời nhất của không gian, của cảnh vật. Phải là không gian rất chi là yên tĩnh thì thi nhân mới hoàn toàn có thể cảm nhận tiếng động thật khẽ, thật êm của cảnh vật, dù cho là sóng có gợn hay chiếc lá khẽ đưa, bằng giác quan tinh tế và sắc sảo, nhạy cảm Nguyễn Khuyến đã nắm trọn từng khoảnh khắc của thiên nhiên. Sắc vàng nếu như ở các bài thơ khác đó là sắc màu chủ yếu, là điểm khác biệt để gợi ý ngày thu thì trong câu thơ của Nguyễn Khuyến sắc vàng ấy cũng như bao sắc màu khác trong bức tranh: xanh của trời, trong xanh của nước,… nó chỉ góp phần làm cho đường nét hợp lý cho bức tranh, tuyệt nhiên không gợi cảm xúc buồn bã lo âu của tâm trạng, hay héo úa của cảnh vật. không chỉ vậy, cái hồn dân dã, vẻ đẹp mùa thu của làng quê Bắc Bộ còn được gợi lên từ các ngõ trúc quanh co:
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
khoảng không được mở rộng ở chiều cao, tác giả hướng ánh nhìn lên bầu trời để cảm nhận được cái “xanh ngắt” của bầu trời, và rất tự nhiên và thoải mái thu tầm nhìn về với ngõ trúc quanh co. không gian ngày thu rất chi là tĩnh lặng. Mọi hoạt động đều quá nhẹ dịu, êm ái còn thiếu để gợi nên âm thanh, duy chỉ có tiếng động của tiếng cá đớp mồi: “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo”. Nhưng cái động đó kết hợp với từ “khẽ” lại chỉ càng nhấn mạnh, tô đậm hơn cái yên ắng, vắng lặng của cảnh vật. Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, Nguyễn Khuyến đã cho thấy cái thanh tĩnh tuyệt vời và hoàn hảo nhất của làng quê nước ta trong cảnh thu thanh bình, dịu nhẹ.
Bài thơ có nhan đề là Câu cá mùa thu, nói đến chuyện câu cá mà thực lại không hẳn vậy. Mượn chuyện câu cá để cảm nhận hết trời thu, cảnh thu vào cõi lòng mình. Hẳn Nguyễn Khuyến phải có tâm hồn thanh tĩnh đến tuyệt đối hoàn hảo mới rất có thể có nhận không thiếu sắc đẹp của mùa thu: xanh ngắt, cái hơi gợn tí của nước, độ rơi khẽ khàng của lá. đặc biệt quan trọng sự yên bình trong tim hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ tiếng động duy nhất trong bài thơ là tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Sự yên bình trong cảnh vật gợi cho tất cả những người đọc cảm nhận về việc cô đơn, uẩn khúc trong thâm tâm hồn nhà thơ. Trong bài các gam màu lạnh xuất hiện nhiều: trong xanh, trong xanh,… Hình như cái lạnh của thu thấm vào tâm hồn nhà thơ hay chính con tim cô đơn của người sáng tác tỏa khắp sang cảnh vật. Đặt trong toàn cảnh quốc gia đầy biến thiên hiện nay, có thể thấy bài thơ bộc lộ tâm trạng đau buồn của Nguyễn Khuyến trước hiện tình đất nước đầy đau thương.
Bài thơ biểu lộ tài giỏi sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Tiếng Việt trong sáng, đơn giản nhưng lại diễn đạt được toàn bộ nhưng gì tinh tế và sắc sảo, xinh xắn nhất của cảnh vật, mô tả được tâm trạng & tấm lòng của nhà thơ. Gieo vần “eo” – từ vận tài lộc tình đóng góp phần diễn tả không gian nhỏ hẹp & tâm trạng đầy uẩn khúc của tác giả. nghệ thuật và thẩm mỹ lấy động tả tĩnh gợi lên cái yên bình hoàn hảo và tuyệt vời nhất của vạn vật thiên nhiên.
Bài thơ Câu cá ngày thu với ngôn từ bậc thầy không chỉ cho những người đọc thấy tài giỏi của Nguyễn Khuyến trong những công việc dùng từ. Mà đằng tiếp đến ta còn cảm nhận được 1 con tim gắn bó tha thiết với vạn vật thiên nhiên, non sông, tấm lòng yêu nước thầm lặng nhưng không hề thua kém phần sâu nặng.
nghiên cứu và phân tích bài thơ Câu cá ngày thu hay nhất 2
mùa thu vốn dĩ là một đề tài không còn xa lạ trong thơ ca nước ta. Thu thường đưa đến cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một chiếc gì đó xa xôi, đầy bí hiểm. đã không ai tình cờ mà không nói đến cảnh thu, tình thu khi đã là thi sĩ! Đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều ấy. Cảnh mùa thu trong thơ ông không phải là ngày thu ở bất kể miền nào, thời nào, mà là ngày thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc này. chỉ còn bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Khi nhận đánh giá về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn cả, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là nổi bật hơn hết cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử hướng đến xem ra sao mà “Thu điếu là điển hình hơn hết cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam”?
nếu mà ở Thu vịnh, mùa chiếm lĩnh được Nguyễn Khuyến tiếp nhận từ cái khoảng không thoáng rộng, bát ngát, mênh mông, với cặp mát hướng thượng, khám phá dần những tầng cao của ngày thu để thấy được: “Trời thu trong xanh mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, nhà thơ không tả mùa thu ở 1 khung cảnh vạn vật thiên nhiên rộng thoải mái, không phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Câu thơ đầu sinh tồn hai vần “eo”, câu thơ biểu hiện sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác mát mẻ, yên tĩnh 1 cách lạ lùng. không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả lại không xẩy ra số lượng giới hạn mà lan rộng ra nhiều chiều, trong cái không gian se lạnh đó có vẻ như khiến cho dòng nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. các tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” ấy, mọi vật sẽ không xuất hiện, thế mà thật bất ngờ: Khung ao không trống vắng mà có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Có khung cảnh thiên nhiên & có dấu vết của cuộc sống đời thường con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm cúng. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh tươi. Câu thơ đọc lên, làm cho đối tượng người tiêu dùng miêu tả có thể trở nên gần cận & thân thiết biết bao! Với hai câu bắt đầu, nhà thơ sử dụng những từ ngữ gợi Bức Ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” đưa tới cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng tanh, ít người qua lại. và rồi hình ảnh:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Càng làm cho không khí trở nên tĩnh lặng hơn, nhà thơ đã dùng cái động của “lá vàng trước gió” để diễn tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê VN. những cơn gió bấc thu đã xuất hiện & đưa theo cái lạnh quay trở về, khiến ao thu không hề “lạnh lẽo”, không thể yên bình nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã ban đầu biến đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như xích míc với nhau, nhưng thật ra ở chỗ này Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ & thon thon hình thuyền, chao đảo liệng đi trong khoảng không, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có 1 con tim yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thường ngày thật thâm thúy thì Nguyễn Khuyến mới hoàn toàn có thể cảm nhận được những âm thanh sắc sảo, tưởng chừng như chẳng ai lưu ý đến như thế! Như trên đã nói: khởi đầu bài thơ, tác giả sử dụng vần “eo” nhưng người sáng tác không xẩy ra giới hạn mà đã lan rộng ra khoảng không theo chiều cao, làm ra khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
bầu trời thu trong xanh lâu nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. các áng mây không trôi nổi bay khắp khung trời mà “lơ lửng”. trước đây Nguyễn Du đã có lần viết về ngày thu với:
lộng lẫy đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Nay Nguyễn Khuyến cũng như vậy. lộ diện khoảng không rộng, xúc cảm Nguyễn Khuyến lại quay lại với khung cảnh làng quê không còn xa lạ cũng vẫn Hình ảnh tre truc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm quanh co…tất cả đều thân thiết vè nhuốm sắc tố thôn quê nước ta. Chỉ đến với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được các nét quê tĩnh lặng, êm ả dịu dàng như thế. Trời sang thu, không gian lạnh lẽo, đường làng cũng vắng vẻ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” không bóng người qua lại. sau này Xuân Diệu trong bài Đây ngày thu tới cũng đã bắt đựơc các nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã ban đầu bước vào những ngày giá lạnh:
các luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang các chuyến đò
Cùng với: Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)
Thế rồi trong cái không khí se lạnh đó của thôn quê, những tưởng sẽ không tồn tại bóng hình của con người, ấy vậy mà thật đột ngột đối với người đọc:
Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hai câu thơ kết thúc đã đóng góp thêm phần biểu hiện đôi điều về chân dung người sáng tác. Tôi nhớ không lầm dường như đã có dữ liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ không phải là “buông”. Theo việt nam tự điển thì “buông” hay hơn, phù hợp với tính cách của nhà thơ hơn. trong số những ngày từ quan lui về ở ẩn, ngày thu câu cá, chính là nụ cười của nhà thơ nơi làng quê để tiêu khiển trong những việc, để hoà mình vào thiên nhiên, mà quên đi những bận lòng với nước non, cho con tim thanh thản. “Buông”: thả lỏng, đi câu không cốt để kiếm cái ăn (hiểu theo như đúng nghĩa của nó), mà để vui chơi, vì thế “ôm” chưa hợp với hoàn cảnh. Từ “buông” mang đến cho câu thơ tác dụng thẩm mỹ và nghệ thuật cao hơn.
tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với thiên nhiên, đối với cuộc sống: chỉ có các ao nhỏ, các “ngõ trúc quanh co”, màu xanh của bầu trời, cũng làm say đắm lòng người. Thì ra mùa thu ở thôn quê chẳng có gì là không quen, ngày thu ở thôn quê chính là cái hồn của cuộc sống đời thường, cái duyên của nông thôn. Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được xúc cảm, vừa biểu hiện đựơc cuộc sống ngây thơ nhất với sự việc sử dụng các âm thanh rất trong trẻo có tính chất vang ngân của các cặp vần, đã sở hữu được cảm tình của người hâm mộ, đã đọc sang một lần thì khó mà quên được.
Bài phân tích 3
Thu điếu Nằm ở phía trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm cùa Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp yên bình nơi làng quê xưa, thể hiện mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của 1 nhà Nho nặng tình với quê hương tổ quốc. Thu điếu cũng tương tự Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào vài ngày sau khi ông đã từ quan về sống ở quê hương (1884)
Hai câu thơ: Ao thu lanh tanh nước trong xanh – một chiếc thuyền câu bé tẻo teo xuất hiện một khoảng không thẩm mỹ, một cảnh quan mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước xanh ngắt có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh mát như bao trùm không gian. không thể cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới mát mẻ như thế. trên bề mặt ao thu đã có một cái thuyền câu bé tẻo teo tự khi nào. một chiếc gợi tả sự đơn độc của thuyền câu. Bé tẻo teo có nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp & êm đềm.
Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí – Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tả khoảng không hai chiều. sắc tố hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ để cho chiếc lá thu gold color khẽ đưa vèo, khiến cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm khá nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy & cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất sắc sảo trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là 1 trong những nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được 1 câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu).
bức tranh chiếm lĩnh được lan rộng ra dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
bầu trời thu trong xanh thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây lơ lửng nhè nhẹ trôi. rộng rãi, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ dịu. Không một bóng người lại qua trên con phố làng đi về những ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là rất chi là im re không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự đơn độc, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào thì cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc & tầng mây cũng là một nét thu đẹp và không còn xa lạ cùa làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức họa thu mới có mặt một đối tượng người tiêu dùng khác:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu có nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu chỉ mới có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc. Mãi đến phần kết mới có mặt người câu cá. Một tư thế nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. một chiếc chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có 1 tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với cùng một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với ngày thu quê hương. Người câu cá đang sinh sống trong một tâm trạng đơn độc & lặng lẽ âm thầm buồn. một cuộc đời thanh bạch, một con tim thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… & chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế an nhàn & thanh cao gắn bó với ngày thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là 1 trong những sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân mật, vần thơ: veo – teo – vèo – teo – bèo, phép đối tạo sự hài hòa và hợp lý cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng… cho biết thêm một bút pháp nghệ thuật và thẩm mỹ vô cùng điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là một trong bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt bút.
Bài nghiên cứu 4
Đi câu là một chiếc thú thanh tao của các bậc trí giả. Có bậc hiền nhân tài giỏi, bất đắc chi đi câu để chờ thời. Ngồi trên bờ ai mà nghĩ đến chuyện năm châu bốn biển, nghĩ đến thế sự hòn đảo điên. “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ” (có người còn dùng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha – Trung Quốc). Có bậc đại nhân vác cần đi câu để hương thú nhàn tản, hòa hợp với vạn vật thiên nhiên, suy tư trong trạng thái thư giãn và giải trí. Nguyễn Khuyến đi câu theo kiểu này. Ông đã mở hết những giác quan để cảm nhận ngày thu, cũng chính là mùa câu của xứ Bắc. tựa như các đứa trẻ trong xóm, ông câu cá cũng chăm chú, cũng hoảng sợ, cũng say mê. công dụng của cuộc chơi ấy là ông đã được 1 bài thơ “Thu điếu” vào loại kiệt tác của nền vãn học nước nhà:
Ao thu nóng bức nước trong xanh,
một cái thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời trong veo.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bức Ảnh ngày thu hiện lên trong bài thơ với một khoảng không hẹp ở chốn làng quê của tác giả, trong một cái ao nhỏ với chiếc thuyền câu nhẹ thênh thênh:
Ao thu lạnh giá nước xanh ngắt,
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Cái tôi trữ tình lặn phía sau ngôn ngữ. xúc cảm của thi nhân thì hiện lên tinh tế và tinh tế và sắc sảo. mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng không ít ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy thoải mái và tự nhiên như không, như không tồn tại chút gì là kĩ xảo cả.
Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo.
Ao thu không thể tĩnh lặng nữa mà đã nổi sóng với hai thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) & hai thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng nhỏ vì ao nhỏ, lại là trong chỗ khuất. Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại sở hữu sắc tố, “sóng biếc” thật đẹp. Ngòi bút của người sáng tác sắc sảo đến từng cụ thể nhỏ. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc” so với “lá vàng”, đều là sắc tố đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” so với “khẽ đưa vèo”, hoạt động của chiều dọc phù hợp với vận động của chiều ngang thật tài tình.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” trên bề mặt ao trong xanh. Cái gold color của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu bao la.
(Bích Khê)
& đây là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh nhìn của Xuân Diệu: “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở những điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.
Nhà thơ mở không gian lên chiều cao làm cho không khí khoáng đạt & không gian được lan rộng ra nên bức họa “Thu điếu” thêm đường nét, thêm màu sắc:
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Màu da trời “xanh ngắt” thật là đẹp, màu xanh da trời xao mà tha thiết. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của độ cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” các áng mây trắng “lơ lửng” trên khung trời “xanh ngắt” thật là thanh thản. Rồi người sáng tác lại trở về cận cảnh với Bức Ảnh của làng quê. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co quen thuộc với bóng tre trùm lạnh giá. Nhưng khi nào trong thơ Nguyễn Khuyến tre cũng nói là trúc, “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Nguyễn Khuyến thích cái hình thể loại cây chí khí ấy “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. các nét trúc thẳng đốì lập với những nét quanh co của đường làng thật là quyến rũ. Trời lạnh, đường quê đìu hiu, “khách váng teo”. bức họa thu đượm buồn. các thi sĩ thích mô tả cảnh thu trong yên bình, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
(Đây mùa thu tới)
Bài thơ kết thúc với Hình ảnh của người đi câu như một nét tự họa:
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, có vẻ như để cân xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Người đi câu đang đắm chìm trong suy tư thì một cử động đã làm cho nhà thơ sực tỉnh:
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) biểu đạt một chút xao động trong làn ao và ít nhiều xao động trong tâm thật là tài tình.
Có chủ kiến nhận định rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha & nhà phản hồi đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thơ chỉ muôn tan hòa vào thiên nhiên, vào non nước. tất cả hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm thế nào thái độ đi câu của Nguyễn Khuyên lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn đồng tình với ai chính là chuyện riêng. Tôi đồng tình với Nguvễn Khuyến.
Trong chùm thơ bài viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu được lựa chọn một bài thì đó là bài “Thu điếu”. Bài thơ “Thu điếu” là kiệt tác trong nền thơ cổ điển tổ quốc. bức họa đồ mùa chiếm lĩnh được biểu đạt bằng những hòa sắc tinh tế và sắc sảo, các đường nét sexy nóng bỏng. Nhạc điệu cũng rất dị. vần gieo hiểm hóc mà thoải mái và tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không còn lép chữ nào. Thật là 1 trong nghệ sĩ cao thâm. Cái tình của nhà thơ cũng đuổi kịp cái tài. Cái tình của nhà thơ đối với quê nhà làng cảnh, với quốc gia quốc gia thấm trong mỗi chữ mỗi lời làm xúc động hết thảy mỗi tâm hồn VN.
Bài nghiên cứu 5
mùa thu luôn là cảm xúc dạt dào, thân thuộc trong thi cổ trung đại. ngày thu đưa về những cảm giác dạt dào mãnh liệt trong từng trang văn, làm cho xúc cảm của mỗi cá nhân lại bâng khuâng, xao xuyến, dào dạt. Nó để cho mỗi người nghệ sĩ lại sở hữu nguồn cảm xúc, nhấc bút để tỉa ra từng chữ tinh hoa trên trang giấy. trong số ấy phải kể đến Nguyễn Khuyến với 3 chùm thơ thu khét tiếng. Mỗi bài mang một sắc tố rất riêng biệt và ta phải nói tới “thu điếu” với 1 phong cảnh nên thơ mà man mác buồn.
“Ao thu mát rượi nước trong veo
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
sắc đẹp miền quê Bắc Bộ được vị Tam nguyên Yên Đổ lột tả 1 cách tinh tế với mang không ít nét nên thơ & khác biệt rất riêng biệt. Bằng tài giỏi tả cảnh Nguyễn Khuyến đã thổi hồn vào cảnh vật, khung cảnh ngày thu đưa tới cho đất trời mua thu một sắc đẹp nên thơ rất riêng. Một bức họa làng quê yên ả được xuất hiện thêm ở đầu tác phẩm:
“Ao thu lạnh mát nước trong veo
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
địa điểm mà nhân vật trữ tình câu cá ở đấy là một chiếc “ao thu”. Hai chữ “ao” và “thu” kết hợp với nhau phân thành một sự vật “ao thu” như chỉ một cái ao mà riêng của mùa thu mới có. Một nét đặc trưng không lẫn với bất kể thứ gì của ngày thu, theo đó ta thấy rõ ràng sắc thu đã bắt đầu thấm đượm trong không gian đất trời. Tính từ “lạnh lẽo” được ghép với “ao thu” như muốn kéo cả không gian trùng xuống. Thu sang, từng cơn gió cành cây ban đầu đượm sự se lạnh của thời gian giao mùa. sau một mùa hạ nóng giãy thì thu cũng đến với bao sự mát rượi hòa lẫn cái se se của gió đầu mùa. Nhưng đó là cái “lạnh lẽo” trong trẻo với mặt nước hồ im lặng, “nước trong veo”. Đến đây cả không gian thẩm mỹ và nghệ thuật như được lộ diện rộng hơn, yên bình đến quái đản.
Giữa nước trời “trong veo” ấy có mặt một chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”. Nguyễn khuyến ưa dùng các tính từ nhất là những láy từ. Với láy từ “tẻo teo” chỉ sự rất nhỏ bé của chiếc thuyền câu. một cái thuyền nhỏ nhắn, lặng trôi giữa mặt hồ, vừa thực vừa mơ không gian đất trời Dường như càng thu hẹp hơn mà cũng nên thơ khối lượng nhẹ hơn cả. từ này mà xuất hiện cho tác giả cảm nhận sự chuyển hóa cảu vạn vật đất trời
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Khung cảnh ngày thu đến đây như được xuất hiện thêm cao lên, không còn là sự việc im thin thít ở 2 câu thơ đầu. các âm thanh, đường nét của khung cảnh ngày thu đã bắt đầu len lỏi vào từng câu chữ, phá vỡ bầu không gian thanh tĩnh thuở đầu. Từng con sóng “lăn tăn” nơi mặt hồ như nhấn mạnh thêm sự biến chuyển nhẹ nhàng của đất trời trong khúc giao mùa sang thu. Một động từ “vèo” cuối câu thơ ý chỉ tốc độ nhanh, thoáng qua, không kịp thâu tóm. có vẻ như có chút tâm tình của nhân vật trữ tình cũng rất được gửi gắm nơi mặt hồ yên ả, các gợn sóng li ty nhỏ nhắn, qua chiếc là vàng thoáng nhẹ lướt qua.
liên tục vẫn là những câu thơ về bức tranh màu thu nên thơ trữ tình được phác họa thêm thâm thúy trong từng nét chữ:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quang co khách vắng teo”
không thể là cái “ao làng” nhỏ nhắn, lạnh buốt nuwqax mà không chỉ vậy là những chóm mây xanh tại tầng cao đất trời. những đám mây “lơ lửng” mang đi một chút lờ lững đến bình thản của lòng người. Nét thu chấm phá lên nên trời trong xanh đặc trưng khiến lòng người khó cưỡng lại. Thu trong thi cổ thường mang trong mình 1 màu ảm đạm & vắng tanh. Nhưng thu trong thơ Nguyễn Khuyến thật êm đềm, nhẹ dịu, bình yên. ngày thu yên bình, trầm tĩnh ấy như nhuốm cả không gian đất trời trong cả từng tuyến đường, “ngõ trúc” cũng vắng ngắt, cô quạnh. các tuyến đường làng nhỏ quanh co không bóng người. “Khách vắng teo” với cách gieo vần “eo” càng gợi tả thêm sự trầm tĩnh đến cùng cực. bóng dáng người cũng không thấy, làm tăng sự cô quạnh, yên bình của không gian khiến tác giả trầm ngâm.
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Hai câu kết của bài thơ ta Dường như vẫn khó có thể nhận biết bóng hình của nhân vật trữ tình, chủ nhân của chiếc thuyền câu bé tẻo teo kia. ngày thu là mùa của màu buồn, nó khiến con người ta thêm phần cô quạnh, buồn bâng khuâng & điều này cũng không tránh được với Nguyễn Khuyến. tác giả thu mình lại, đơn độc giữa bầu không gian tĩnh lặng, lạc điệu. Tư thế “tựa gối” lại góp thêm phần thu nhỏ Hình ảnh người sáng tác, để cho đất trời cũng trở thành chật hẹp hơn.
Một động từ “đớp” Hình như khuấy động của sự việc tĩnh lặng của toàn bài thơ. Đấy đó là mẹo nhỏ lấy động tả tình rất rực rỡ của nhà thơ. Tấm hình “cá đớp” ấy để cho người sáng tác bất ngờ khi đang chìm đắm trong phong cảnh u buồn của mùa thu, nó có vẻ như thức tỉnh tâm lý, đánh thức người sáng tác thoát khỏi sự chìm đắm u buồn mà quay về với thực tại. Sẽ chẳng thể nghe thấy tiếng đớp động bé nhỏ ấy nếu ta đang ở trong một cộng đồng đấy sự vội vã. Hình ảnh cá đớp chắc hẳn rằng cũng chính là Tấm hình ẩn dụ cho những biến động của xã hội bấy giờ, dân tình loạn lạc, đất nước lầm than. thông qua đó ta thấy được phần nào tấm lòng người sáng tác đối với dân với nước nhưng cũng đành bất lực, không biết tỏ cũng ai, giãi cùng người.
“Thu điếu” của Nguyễn Khuyên đã vẽ ra một bức họa đồ làng quê thuộc vùng Bắc Bộ mang trong mình một sắc tố rất đơn giản và giản dị những cũng không thua kém phần đặc sắc. một khung cảnh yên bình, một bức họa đồ nên thơ trữ tình cùng những nét đượm buồn của ngày thu đặc thù. đồng thời cũng cho ta hiểu phần nào nỗi niềm, tình thế cô quạnh, bất lực trước vận mệnh non sông, trước sự loạn lạc của xã tắc đương thời mà không hề giãi bài cùng ai.
Bài phân tích 6
người sáng tác Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là người con sinh tại vùng đất Nam Định nhưng ông lại có tầm khoảng thời gian lớn lên và gắn bó với xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tuy mái ấm gia đình nhà nho của ông phải sống cuộc sống đời thường khó khăn vất vả nhưng Nguyễn Khuyến đã vượt khó và bằng năng lực sẵn có của bản thân mình, ông vượt mặt các kì thi khoa bảng một cách xuất sắc: cả ba kì thi đều đỗ đầu (từ năm 1864 đến năm 1871). đó là lí do mà người đời thường gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ. dù có sự nghiệp nhưng Nguyễn Khuyến lại chọn sống một cuộc sống thường ngày bình dị, chân phương nơi quê nhà với công việc dạy học chứ không lựa chọn ra làm quan cả cuộc đời. chính là con người có tài và phẩm chất thanh cao. Ở ông có các thể hiện rất độc đáo cho tấm lòng yêu nước sâu sắc vậy nên suốt cuộc sống mình, ông đều thể hiện thái độ bất hợp tác với thực dân Pháp 1 cách nhất quyết.
đóng góp nổi bật nhất của Nguyễn Khuyến vào nền văn học dân tộc quốc gia đó là ở mảng thơ Nôm, dù ông có viết cả những tác phẩm chữ Hán. tác phẩm của Nguyễn Khuyến dù được nhà thơ biểu lộ dưới hình thức nào đi chăng nữa thì hiển hiện rõ nét và đồng điệu nhất là tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước.
Việc nghiên cứu và phân tích Câu cá mùa thu sẽ được thực hiện qua từng cặp câu. Hai câu thơ đầu xuất hiện thêm khung cảnh hết sức thân quen của làng quê Việt Nam:
Ao thu lạnh ngắt nước trong xanh
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Bài thơ sử dụng Hình ảnh “ao thu” là điểm nhìn mở đầu. Tuy không gian khởi đầu của tác phẩm thu hẹp trong khoanh vùng ao thu nhưng tiếp sau không gian thân quen ấy là “chiếc thuyền câu bé tẻo teo” – Bức Ảnh không thể lạ lẫm nhưng biểu đạt được động thái của mùa thu. có thể thấy, cách Nguyễn Khuyến dẫn dắt người đọc vào bài thơ của bản thân mình là rất riêng. Không nhất thiết là những Hình ảnh cao lớn, hầm hố mà chỉ việc một không gian ao thu nhỏ xinh, một cái thuyền câu be bé như cũng muốn thu lại trong cảnh là đủ để thấy được Tấm hình bình dị, gần gụi của quê hương đang đắm mình trong dịp thu.
mặc dù thế, Nguyễn Khuyến không chỉ có đơn thuần tả cảnh, ẩn trong cảnh ấy vẫn chính là cái tình của con người. những tính từ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” tuy được dùng để gợi tả đặc tính của cảnh nhưng cũng phần nào chuyển tải được tâm tư tình cảm của con người. Trong khoảng không thu hẹp kia, con người xuất hiện và có khi con người ấy cũng phân biệt sự “lạnh lẽo”, “bé tẻo teo” của chính bản thân mình trong sự vắng vẻ, đìu hiu của cảnh nhưng cũng đồng thời cảm nhận được bản thân như cũng “trong veo” cùng cảnh ấy.
Hai câu thơ tiếp theo là nét vẽ giúp cho bức họa thu của Nguyễn Khuyến như có hồn hơn:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Cặp câu có sự sóng đôi của Bức Ảnh “sóng biếc” và “lá vàng”, hơn thế nữa lại là việc phối hợp của màu “biếc” và sắc “vàng” tạo sự hài hoà của bức họa mùa thu, dịu mát, nhẹ nhàng nhưng không còn nhạt nhoà. bức họa thu qua nét vẽ của bàn tay tài hoa của Nguyễn Khuyến lại trở nên tấp nập hơn vì sự vận động của các sự vật khá gần cận trong cuộc sống thường ngày con người, nhưng sự chuyện động ấy lại có sự đối lập bởi phía bên dưới mặt ao sóng nước nương theo làn hơi để “gợn tí” nhưng phía bên trên không gian là trạng thái “khẽ đưa vèo” của lá vàng trước gió. Chữ “vèo” trong câu thơ sử dụng thật đắt, Hình như đây chính là một số ít các câu thơ làm hài lòng vị Tam Nguyên Yên Đổ.
Cặp câu tiếp theo sau giúp cho bức tranh thu thêm lan rộng ra về không gian và nhất là có thấp thoáng bóng dáng của con người:
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
nếu mà câu thơ trước tác giả khiến người đọc hướng mắt từ mặt ao lên khoảng không thì nay không gian đã xuất hiện thêm rộng lớn hơn bởi trời cao và xa hơn bởi tuyến phố ngõ trúc quanh co. Trong câu thơ thứ năm, nhà thơ khiến người đọc có sự chú tâm đặc biệt quan trọng vào màu “xanh ngắt” của mây trời trong cái trạng thái lơ lửng êm đềm trôi. Hướng cái nhìn từ trên cao xuống bề mặt đất & phóng tầm mắt ấy ra xa để thấy sự quanh co của ngõ làng có hàng trúc, mặc dầu Bây Giờ con ngõ ấy “vắng teo” nhưng chắc chắn nó đã từng có một số người qua lại. có thể ở chỗ này, tác phẩm của Nguyễn Khuyến làm người đọc cảm nhận thấy vắng ngắt, tĩnh mịch nhưng tuyệt nhiên đó Chưa hẳn là cái vắng ngắt, vắng lặng của âu sầu buồn bã, buồn bã.
Bài phân tích Câu cá ngày thu sẽ khép lại bằng sự việc cảm nhận Tấm hình của nhân vật trữ tình qua hai câu thơ cuối:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Trong thơ, nhân vật trữ tình hiện hữu trong tư thế “tựa gối buông cần”. Nếu ứng nhân vật trữ tình vào cuộc sống nhà thơ thì đây là thời gian nhà thơ đã từ bỏ chốn quan trường danh lợi để chọn cuộc sống đời thường bình dị, nhàn thân ở nơi thôn quê dân dã. Âm thanh “cá đâu đớp động” mà người sáng tác nghe được gợi một điều gì xa vắng, không rõ rệt nhưng cũng chính là sự bừng tỉnh. điều ấy cũng không khó tưởng tượng vì Nguyễn Khuyến là kẻ học rộng tài cao nhưng lại có tấm lòng yêu nước thương dân. vậy nên, ông không gật đầu một cuộc sống đời thường làm bù nhìn, luồn cúi trước bọn thực dân tàn ác, mưu mô. và ở đầu cuối, Nguyễn Khuyến đã chọn cho bản thân mình cuộc sống đời thường ẩn dật nhưng thanh bạch. Tưởng chừng, với ông chính là cuộc sống thường ngày an lạc nhưng thật ra có khi nhà thơ chỉ nhàn thân chứ không nhàn tâm bởi sâu trong ông vẫn còn nặng mối lo cho dân cho nước. vậy cho nên mới có cái thảng thốt nhói đau mỗi một khi ngoại cảnh có gì xao động như tiếng cá đớp động dưới chân bèo.
Bài phân tích 7
Viết về đề tài ngày thu nếu mà ở văn học Trung Quốc có “Thu hứng” của Đỗ Phủ là tiêu biểu vượt trội & đặc sắc thì nền văn học dân tộc Việt không hề không nói tới chùm thơ thu của cụ Tam Nguyên Yên Đổ_Nguyễn Khuyến. Chùm thơ thu gồm ba bài “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm” ngày thu hiện lên qua cái nhìn đa tình của nhà thơ. nhất là bài thơ“Thu điếu” (Câu cá mùa thu) mang nét đặc sắc riêng “điển hình hơn hết cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam”, đằng sau cảnh thu, tình thu là tâm trạng, nỗi niềm thầm kín của người sáng tác.
Nguyễn Khuyến là người học rộng tài cao ba lần đỗ tú tài và ra làm quan dưới triều vua Tự Đức, chứng kiến “từng bước cơn hấp hối” của chế độ phong kiến thối nát. Ông không chịu bắt tay hợp tác với giặc, muốn giữ mình thanh sạch mà đã về ở ẩn sau hơn mười năm làm quan. Chùm thơ chiếm được Nguyễn Khuyến sáng tác sau thời điểm về ẩn cư nơi quê hương.
“Thu điếu” cũng tương tự hai bài thơ thu đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bằng ngôn từ dân tộc chữ Nôm. tất cả cảnh thu, tình chiếm được mô tả hiện lên rõ rệt trong tám câu thơ.
bắt đầu bài thơ là khoảng không, thời gian của mùa thu ở làng quê Bắc Bộ:
“Ao thu mát mẻ nước trong xanh
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
khoảng không ở đây là ao thu. Ao là đặc trưng của vùng quê chiêm trũng quê hương của người sáng tác. thời hạn không phải là đầu thu có chút oi ả xen lẫn của mùa hạ mà có lẽ rằng là lúc phân thu nên mới có hơi lạnh của sự “lạnh lẽo”. Tính từ “Trong veo” đặc tả độ trong của nước Hình như rất có thể nhìn xuyên thấu xuống phía bên dưới, nó gợi ra sự thanh sạch và tĩnh lặng phía trên mặt ao. Tính từ “lạnh lẽo” như càng làm cho sự lặng ngắt ngày càng tăng. không dừng lại ở đó “một chiếc thuyền câu” số từ chỉ số ít “một chiếc” cùng theo với tính từ “bé tẻo teo” gợi sự bé nhỏ đến vô cùng. Chiếc thuyền câu như co lại là 1 trong những chấm trên nền của ao thu. người sáng tác sử dụng thẩm mỹ chấm phá điểm nhãn. Trên cái nền yên tĩnh của mặt ao có mặt một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Hai câu thơ đầu đã lộ diện một không gian thu với cảnh sắc rất mộc mạc, giản dị và đơn giản mang nét đặc trưng chất thu, khí thu của làng quê Bắc Bộ.
nếu mà ở 2 câu đề khá nổi bật lên là sự tĩnh lặng thì hai câu thực đã mang những nét hoạt động nhưng nó lại động để tĩnh. Lấy cái động của cảnh vật mà tả cái tĩnh của mùa thu chốn thôn quê.
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai Hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” tưởng chừng như không có mối liên hệ mà có một sự ngắn gọn xúc tích, nghiêm ngặt với nhau. Vì gió thổi làm cho sóng gợn, lá rơi. Cảnh vật chuyển động chẳng phải ào ạt của lá mùa thu như trong thơ Đỗ Phủ mà nó thật khẽ khàng, nhẹ dịu sóng chỉ hơi gợn tí, lá chỉ khẽ đưa vèo. những tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ” được dùng thật tài tình, kết phù hợp với nhau tạo cho sắc tố, Tấm hình khiến cho cảnh thu trở nên nhộn nhịp có hồn. Chữ “vèo”khiến cho Tản Đà khâm phục, tâm đắc rất chi là. Ông thổ lộ một đời thơ, ông mới có được 1 câu thơ vừa lòng “Vèo trông lá rụng đầy sân”. Nguyễn Khuyến phải là một con người dân có một tâm hồn tinh tế và sắc sảo, nhạy cảm mới rất có thể cảm nhận được sự hoạt động mà như tĩnh tại. nghệ thuật và thẩm mỹ lấy động tả tĩnh đã được sử dụng thành công mang về hiệu quả cực tốt.
không gian cảnh vật không chỉ có bó hẹp trong khoảng không của mặt nước, của ao thu mà được lan rộng ra ra hai chiều với cùng 1 tầm nhìn cao hơn, xa hơn. đó là cái nhìn toàn cảnh bao quát lên cả khung trời với rất nhiều đường nét, sắc tố thoáng đạt:
“Tầng mây lo lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
khung trời xanh ngắt vẫn luôn là biểu tượng đẹp của mùa thu, có lần Nguyễn Du đã từng có lần viết: “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” bầu trời xanh trong, cao thẳm của “Thu điếu” có sự đồng nhất với khoảng không mây trời của “Thu vịnh” “Trời thu trong xanh mấy tầng cao” hay trong “Thu ẩm” với “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”. Mây trời trong “Thu điếu” không trôi mà “lơ lửng” gợi một cảnh thu đẹp & yên tĩnh như ngưng đọng lại trên khoảng không bao la, to lớn. Chiều sâu khoảng không được chi tiết cụ thể hóa bằng độ “quanh co” của ngõ trúc. Tấm hình cây trúc có mặt khá nhiều trong thơ của ông, nhìn khái quát nó mang 1 nét lặng ngắt & đượm buồn mà Nguyễn Khuyến đã viết: “Dặm thế ngõ trúc đâu từng ấy/Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”. màu xanh của da trời, màu xanh da trời của trúc bao phủ lên sắc màu của khoảng không. Cảnh vật trở nên u tịch, cô liêu, hiu hắt với tính từ “vắng teo” tức là vắng ngắt, đìu hiu không một bóng người cùng theo đó cũng cho biết thêm sự thoáng mát, trong lành của khoảng không nơi đây.
Sự ảnh hưởng của ngoại cảnh để cho con người không khỏi chạnh lòng mà đơn độc. Nguyễn Khuyến có lần đã từng có lần tự thán về nỗi cô độc của đời mình: “Đời loạn mang đến như hạc độc/Tuổi giá hình bóng tựa mây côi” (Cảm hứng).
Sáu câu thơ đầu là việc diễn đạt về cảnh vật, về mây trời non nước ngày thu. Đến hai câu kết ta mới thấy sự có mặt của con người. Cái ý vị nhất của bài “Thu điếu” nằm ở cả hai câu cuối: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Bức Ảnh cụ Tam Nguyên Yên Đổ xuất hiện với tư thế ngồi bó gối buông cần thả câu làm cho một đường nét bất động trên bức tranh thu yên bình. Nhà thơ ngồi câu cá mà tâm thế như đặt tại nơi nào không chú tâm đến sự việc câu để rồi giật mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Một lần nữa nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thắng lợi. Tiếng cá đớp tạo cho chuyển động nhỏ cũng khiến cho nhà thơ bất ngờ tỉnh giấc tựa chiêm bao nó gợi lên sự tĩnh lặng, lặng ngắt đến vô cùng. Cách hỏi “cá đâu” thật rực rỡ tạo nên sự mơ hồ trong khoảng không & sự ngỡ ngàng trong trái tim của người điếu ngư. Tấm hình ấy làm cho ta liên tưởng đến cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thong thả ngồi uống rượu dưới gốc cây:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống/Nhìn xem phong phú tựa chiêm bao”
thực ra, câu cá chỉ là cái cớ để Nguyễn Khuyến mô tả bức tranh thu, qua đó nhà thơ bộc lộ tâm hồn & tâm trạng của chính bản thân mình. Tấm hình người đi câu cá rất có thể khiến ta liên tưởng tới con người thi sĩ, nho sĩ trước tình trạng non sông lúc bấy giờ. Theo kinh nghiệm của dân gian nước trong thì không có cá nhưng tiếng cá đớp động chân bèo đã tiếp thêm động lực cho người điếu ngư không nản chí mà liên tục công việc của bản thân. cũng giống như vậy chính trị VN bấy giờ rối ren, thực dân Pháp xâm lược, triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu đuối mà chóng vánh thỏa hiệp để hồn nước lâm vào tay giặc. Nhà thơ vì muốn bảo toàn khí tiết nên chọn tuyến đường về ở ẩn noi gương tiền nhân Đường Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay cụ Đào Tiềm_Đào Uyên Minh bên China một đời quyết giữ để mình thanh sạch. tuy nhiên, âm thanh cá đớp động như thức tỉnh nhà Nho, nhà trí sĩ yêu nước như thức tỉnh tạo động lực thúc đẩy ông vùng dậy đấu tranh bảo vệ nền hòa bình dân tộc. Nhưng âm thanh ấy thật mơ hồ tương tự như trăn trở trong tim nhà thơ liệu rằng mình rất có thể cống hiến giúp đời hay là bất hợp tác với giặc lánh mình ẩn cư.
như thế Nguyễn Khuyến không chỉ là biểu hiện các cảm tình thương yêu vạn vật thiên nhiên, quê nhà quốc gia mà còn kín mít bày tỏ nỗi buồn trong sáng nhưng cô đơn của một ẩn sĩ, tuy nặng lòng yêu nước nhưng cam phận đành bất lực trước thời thế lựa chọn tuyến phố lánh đục về trong.
Nguyễn Khuyến là một thay mặt đại diện lớn số 1 & sau cuối của văn học trung đại nước ta ở quy trình cuối thế kỉ XIX. Thơ ông là sự việc kết hợp tài tình giữa tinh hoa văn học bác học với văn học dân gian. “Thu điếu” là 1 bài thơ hay và rực rỡ với việc chiến thắng của bút pháp thẩm mỹ lấy động tả tĩnh, chấm phá điểm nhãn, sử dụng những từ láy có đặc thù gợi hình, gợi cảm cao nhất là cách gieo vần “eo” thật tài tình. Bài thơ được gia công theo đúng niêm, đúng luật của thể thơ vừa mang tính quy phạm của thơ ca trung đại cũng tiến hành giải quy phạm với các sáng tạo mới không thể sử dụng những Tấm hình ước lệ, tượng trưng mà không chỉ vậy là sự việc mộc mạc, chất phác của cuộc sống nông thôn.
“Thu điếu” cùng với hai bài thơ trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đã góp thêm phần làm ra sự phong phú và đa dạng và đặc sắc cho đề tài viết về mùa thu của nền văn học dân tộc với nét đặc thù là việc tĩnh lặng, thanh thản với những Hình ảnh bình dị của làng quê.
Bài nghiên cứu và phân tích 8
Viết về đề tài ngày thu đã từng có lần có rất nhiều các thi nhân mặc khách như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du thả hồn mình với non nước mây trời nhưng phải đến Nguyễn Khuyến với chùm thơ thu thì cảnh thu mới sự thật hiện lên rõ nét có các đặc trưng của riêng nó. nhất là bài “Thu điếu” “điển hình hơn cả cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam”. bức họa đồ thu thanh bình, tĩnh lặng với những Tấm hình giản dị và đơn giản, mộc mạc mà có sức thu hút riêng được thi sĩ đặc tả qua tám câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
nếu như trong thơ Phố Nguyễn Trãi cảnh thu vẫn là thu mượn với những Hình ảnh ước lệ, tượng trưng thì cho đến Nguyễn Khuyến bằng có tài của bản thân đã đưa thơ nước ta cải tiến và phát triển lên một bước mới gần với hiện thực, cụ thể & sinh động hơn trong bút pháp miêu tả. ngày thu trong thơ ông là mùa thu của dân tộc bản địa, ngày thu của vùng quê chiêm trũng Bắc Bộ.
mở màn là khung cảnh mùa chiếm lĩnh được hiện ra trước mắt với hình ảnh:
“Ao thu nóng sốt nước trong xanh
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Cảnh chiếm hữu được gói vào trong khoảng không chật chội và tĩnh lặng, ao thu bé tí Nổi lên là chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Hai câu thơ gợi cho ta thấy một khoảng không thật nên thơ chữ tình để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm địa độc giả.
Nguyễn Khuyến tả cảnh thu không chỉ tạm dừng ở này mà còn mô tả thật sinh động với Hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” có các hoạt động thật nhẹ dịu, sắc sảo. Cái động ấy càng tô đậm thêm sự tĩnh tại của cảnh vật với thẩm mỹ và nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Chữ “vèo” gợi ra cái thanh mảnh, mong manh của chiếc lá mùa thu nhưng có 1 sức hút làm ra rực rỡ nghệ thuật làm cho Tản Đà phải tâm đắc, khâm phục. Ông thổ lộ một đời thơ ông mới có được 1 câu thơ vừa ý “Vèo trông lá rụng đầy sân”.
Nguyễn Khuyến như hóa thân thành nhà quay phim, góc nhìn của ông như cái máy quay khi gần, khi xa, khi ở dưới mặt ao rồi lại quay đến tầm cao trên khung trời hay là cả chiều sâu hun hút của ngõ trúc quanh co. Ngõ trúc là đặc trưng của làng quê Bắc Bộ. Phải là một trong những con người dân có tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương non sông đến rất chi là mới đã có được tầm nhìn tổng thể đến từng chi tiết cụ thể biểu đạt cảnh thu. màu xanh lá cây của da trời, greed color của trúc che phủ lên sắc màu của khoảng không. Cảnh vật có thể trở nên u tịch, cô liêu, hiu hắt với tính từ “vắng teo” có nghĩa là đìu hiu, vắng vẻ không một bóng người cùng theo đó cũng cho biết thêm sự thoáng đãng, trong lành của không gian nơi đây.
Cảnh thu trong bài thơ “Câu cá màu thu” là khung cảnh đẹp có sự im re, thanh bình. Mọi sự chuyển động đều có thể trở nên rất nhẹ nhàng, hoạt động mà như có như không của sóng gợn, của lá thu thướt tha bay trong gió. Con người ở chỗ này cũng vậy không thể cao lớn như các con người của thời đại với tư thế “hoành sóc” như trong “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão mà nó cô liêu, đơn độc nhỏ nhắn trong không gian:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Nguyễn Khuyến xuất hiện với tư thế ngồi bó gối buông cần thả câu toát lên vẻ trầm tư tạo nên một đường nét bất động trên nền bức tranh thu yên bình. Nhà thơ như mơ hồ giữa thực tại mà bất giác bị giật mình khi tiếng cá đớp động dưới chân bèo. có thể nói âm thanh vang lên trên cái nền tĩnh động của khoảng không là nét rực rỡ trong quý phái thẩm mỹ và nghệ thuật tả cảnh của nhà thơ. Con người và cảnh vật như hòa vào nhau làm một tạo cho một bức tranh nước mặc đậm chất cổ điển. Cái tĩnh cái buồn ấy nó không chết lặng mà vẫn có sự trong sáng, thơ mộng và có sức sống bất diệt trong thơ ca.
Bài thơ “Câu cá mùa thu” đã đặc tả được bức họa ngày thu của làng cảnh việt nam thật đối với tất cả những sắc đẹp đơn sơ, bình dị đậm chất thôn quê được tái hiện qua lăng kính con tim & thắng lợi với thẩm mỹ và nghệ thuật diễn tả tài tình của người sáng tác. Nguyễn Lộc đã nhận định: “Nói về thiên nhiên, trong văn học cổ có nhiều, tả nét đẹp của vạn vật thiên nhiên mùa thu trong văn học cổ rất thú vị. Nhưng trước Nguyễn Khuyến chưa lúc nào có 1 vạn vật thiên nhiên đậm đà phong vị của quê hương nước nhà đến thế.”
Bài nghiên cứu 9
Nguyễn Khuyến Theo thông tin được biết đến kinh khủng nhất với chùm thơ thu gồm.ba bài thơ bằng tiếng Nôm một trong những số ấy chính là “ Câu cá mùa thu” . xuyên suốt bài thơ là 1 trong những nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê thời rất lâu rồi, thể hiện một nét cô đôn trong trái tim hồn một nhà Nho yêu quê nhà yêu quốc gia thời bấy giờ. Sau khoảng tầm thời gian ông từ quan về quê hương, một loạt nhưxng sản phẩm thực tế Ra đời như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”.
mở đầu bài thơ là hai câu thơ
“ Ao thu giá lạnh nước xanh ngắt
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
chỉ cần đọc hai câu thơ ta hoàn toàn có thể hình dung ra cảnh sắc mùa thu, một khoảng không nghệ thuật và thẩm mỹ đang bao phủ xung quanh chúng ta. Nước xanh ngắt của ao có thể giúp ta nhìn xuyên thấu được qua lòng ao, một không khí lạnh mát đang phủ rộng ra khắp không gian. không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lanh tanh như thế. không biết từ khi nào mà trên lòng ao đã có mặt một cái thuyền câu giữa không gian bao la to lớn Dường như sự đơn độc của chiếc thuyền đang tỏa khắp rộng ra khắp không gian. Bé tẻo teo có nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo – bé tẻo teo). Đó là một trong những nét thu đẹp & êm đềm. Tiếp đó cùng phi vào quả đât thẩm mỹ của hai câu thơ tiếp theo:
“ Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai câu thơ đang gợi tả cảnh vật bao quanh theo khoảng không hai chiều có thể nhìn bằng mắt là sóng đang gợn & tai có thể nghe thấy tiếng lá được gió đưa vèo. vô cùng mộc mạc giản gị nhưng cũng có thể cho những người ta thấy được sự hài hòa và hợp lý của sắc tố được người sáng tác miêu tả có sóng biếc có lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ để cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, khiến cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. không chỉ có vậy không chỉ có vậy người sáng tác còn phối kết hợp sử dụng phép đối 1 cách rất chi là tài tình hỗ trợ cho nét sở hữu được nhấn mạnh giúp người đọc rất có thể hình dung ra không gian mà người sáng tác đang diễn tả như đang ở trước mặt mình một cách rất chi là chân thực và rõ ràng. Phải công nhận một điều là ngòi bút của tác giả Nguyễn Khuyến vô cùng tinh tế và sắc sảo trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là 1 trong những nhân tự mà về sau thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu). Chưa dừng lại ở đấy Nguyễn Khuyến còn làm tất cả chúng ta mở rộng tầm mắt hơn ở cả 2 câu thơ tiếp theo:
“ Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Một bầu trời trong xanh và thăm thẳm bát ngát & to lớn đang bao phủ lấy không gian nơi đây. các áng mây đang lẳn lặng trôi trên khung trời rộng lớn giống như đang nhấn mạnh sự rộng lớn của không gian nơi đây. rộng rãi, êm đềm, yên bình và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên tuyến phố làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng im thin thít không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự đơn độc, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào thì cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
chắc rằng giữa những sự vật rất gần gũi với Tấm hình làng quê đó là ngõ trúc & tầng mây. Hai sự vật này đã từng có mặt rất nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật và thẩm mỹ. có vẻ như tác giả đang tự hòa tâm hồn và đắm chìm vào trong phong cảnh nơi đây nên mới hoàn toàn có thể mô tả 1 cách rất chi là chân thật như vậy được. Đến hai câu kết thì bức họa đồ thu mới xuất hiện một đối tượng người tiêu dùng khác:
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Thu điếu có nghĩa là ngày thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Bức Ảnh người câu cá đến tận phần sau cùng mới thấy có mặt với một tư thế tựa gối ôm cần vô cùng nhàn hạ. trong thâm tâm thế đợi chờ lâu chẳng được bỗng nhiên tác giả bỗng nhiên chợt tỉmh vì nghe thấy tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Sự mong chờ đã từ rất láu mãi đến hiện giờ đã có một chút ít hiệu quả. Người câu cá như đang không xem xét mọi thứ tạp niệm chỉ tập trung hòa tâm hồn vào trong không gian giờ đây, trong cảnh sắc rất chi là đẹp lung linh, và trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với cùng một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê nhà. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng đơn độc & âm thầm lặng lẽ buồn. 1 cuộc đời thanh bạch, một con tim thanh cao đáng trọng.
Thu điếu là 1 trong những sản phẩm thực tế quá tuyệt hảo của người sáng tác Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã từng có lần bộc bạch rằng trong Thu điếu có một nét diệu xanh mà người tả không tài nào hiểu hết sắc đẹp, vẻ tinh túy của chính nó được. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… & chỉ có 1 màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. mặc dù vậy ẩn sâu trong cái yên bình đó lại có 1 nỗ buồn man mác của người sáng tác. Một tâm thế an lạc và thanh cao gắn bó với ngày thu quê nhà, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một trong sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê gần gũi, vần thơ: veo – teo – vèo – teo – bèo, phép đối làm nên hài hòa phù hợp, điệu thơ nhẹ dịu bâng khuâng… cho biết thêm một bút pháp thẩm mỹ rất chi là điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu xứng đáng là một trong những tác phẩm tả cảnh ngụ tình xuất sắc trong chương trình Ngữ văn lớp 11.
Bài nghiên cứu 10
trong số những niềm vui thanh nhã của con người đó là đi câu cá. những bậc hiền tài xa xưa cũng không ngoại lệ. nhiều lúc họ đi câu cá để ngồi trên bờ tâm trí các chuyện giúp ích cho thiẻn hạ, chuyện naem cháu bốn biển, thế sự đảo điên. các bậc cao nhán đi câu cá để trải nghiệm vạn vật thiên nhiên, thả mình vào không gian trời đất giúp mình cảm nhận thấy tự tại. tác giả Nguyễn Khuyến đã đi câu cá kiểu này, ông đã tận dụng mọi giác quan để cảm nhận hết mọi sự vật sự việc ra mắt xung quanh bản thân. Ông cảm nhận ngày thu 1 cách chân thật nhất, tương tự như bao người khác khi đi câu ông cũng tập trung tinh thần, mong chờ kết quả. Cuối cùbg chắc hẳn rằng kết quả to lớn mà ông đã đạt được chính là sản phẩm thực tế “ Thu điếu”. trong những tác phẩm siêu phẩm của nước nhà.
“Ao thu lạnh giá nước xanh ngắt,
một cái thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời trong veo.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Tấm hình mùa thu hiện ra 1 cách vô cùng đơn giản & thân thương với không gian bình dị ở làng quê tác giả trong một cái ao nhỏ với một cái thuyền âm thầm lặng lẽ trôi:
“ Ao thu lạnh giá nước xanh ngắt
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
Đằng sau những ngôn ngữ dân giã chính là một cái tôi trữ tình của tâc giả. cảm hứng của thi nhân hiện lên vừa tinh tế và sắc sảo mà hết sức tinh tế và sắc sảo. mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên và thoải mái như không, như không tồn tại chút gì là kĩ xảo cả. Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo
Ao thu chẳng còn mang vẻ yên bình như lúc ban sơ nữa Ngược lại đã bắt đầu nổi các cơn sóng nhỏ với hai thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) & hai thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng nhỏ vốn lẽ chính vì ao nhỏ, lại ở trong một hỗ khuất. Nét đặc biệt của mùa thu thì phải kể đến từng cơn gió nhẹ, từng ngọn gió heo may thổi qua 1 cách nhẹ dịu. Con sóng được người sáng tác miêu tả với màu sắc vô cùng mới mẻ và đặc biệt quan trọng “ sóng biếc” mặc dầu những chi tiết cụ thể bé nhất người sáng tác cũng đặt hết tận tâm của bản thân mình vào tạo thành một sự sắc sảo sâc sảo đến quái gở. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc” so với “lá vàng”, đều là sắc tố đặc trưng của ngày thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, vận động của chiều dọc cân xứng với chuyển động của chiều ngang thật tài tình.
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” phía trên mặt ao trong xanh. Cái màu vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
(Bích Khê)
Dưới cặp mắt thẩm mỹ và nghệ thuật của nhà thơ Xuân Diệu thì chiếc lá vàng trong thơ Nguyễn Khuyến “Cái mê hoặc của bài Thu Điếu ở những điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có 1 màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.
Nhà thơ còn lan rộng ra khoảng không lên cao giúp cho bức họa của Thu điếu góp thêm phần rộng lớn, bao quát , thêm đường nét và thêm các đường sắc mới.
“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Một màu xanh lá cây vô cùng nhẹ nhàng nhưng vô cùng đẹp đẽ mng lại cho chúng ta một cảm giác dễ chịu dễ chịu và thoải mái. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của độ cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” những áng mây trắng “lơ lửng” trên khung trời “xanh ngắt” thật là thanh bình. Xa xa gần gần rồi tác giả bắt đầu trở về với Hình ảnh thôn quê mộc mạc. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co không còn xa lạ với bóng tre trùm nóng bức. các Tấm hình đã có lần xuất hiện rất nhiều trong số tác phẩm văn học thẩm mỹ. Nhưng mỗi tác giả đều phải sở hữu cách để cho Bức Ảnh mình biểu đạt có thể trở nên trông rất nổi bật và Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ. Nguyễn Khuyến chắc rằng rất thiach Tấm hình của loài tre trúc ấy “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Ông đã nói đến nó trong không ít tác phẩm thẩm mỹ và nghệ thuật chắc có lẽ rằng là vì khí chất hiên ngang không chịu khuất phục của chính nó. “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Trên tuyến đường làng quê quanh co uốn lượn lại điểm xuyết các rặng trúc thẳng tắp Hình ảnh trái ngược nhưng lại góp thêm phần cho chúg ta cảm nhận đượ hết nét gần cận của làng quê VN. Trời lạnh, đường quê vắng tanh, “khách váng teo”. bức họa đồ thu đượm buồn. các thi sĩ thích mô tả cảnh thu trong yên bình, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang các chuyến đò
(Đây ngày thu tới)
Bài thơ kết thúc với Bức Ảnh của người đi câu như 1 nét tự họa:
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, có vẻ như để tương xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ đang đắm chìm vào sự suy tư quên hết đi mọi thứ tạp niệm thì bỗng nhiên một tiếng cử động nhỏ đã khiến tác giả sực nhớ mình đang đi câu cá.
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) biểu đạt một ít xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong thâm tâm thật là tài tình khiến cho những người khác phải ngã mũ thán phục. Có ý kiến nhận định rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. thánh địa chỉ muốn hòa mình vào thiên cảm nhận được hết không gian ở chính nơi thôn quê mình đang sinh sống. toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với vạn vật thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm thế nào thái độ đi câu của Nguyễn Khuyên lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn đồng tình với ai chính là chuyện riêng. Tôi ưng ý với Nguvễn Khuyến.
toàn bộ những sản phẩm thực tế trong chùm thơ của ông đều nói cách khác là rất chi là tuyệt vời, tùy nhiên nếu cho tôi chọn một sản phẩm thực tế tâm đắc nhất chính là “ Thu điếu”. Tác ohaarm này có thể xem như là kiệt tác văn học trong nền văn học cổ điển đất nước. Bài thơ như vẽ ra một bức tranh ngày thu ở trước ta một cách rất chi là chân thực. Nhạc điệu cũng độc đáo và khác biệt. vần gieo hiểm hóc mà thoải mái và tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không thể lép chữ nào. Quả thật Nguyễn Khuyến là một trong những thi sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ cũng luôn đi đôi với chữ tài. Một tình yêu cao lớn đối với quê hương đất nước con người việt nam từng câu từng chữ mà người sáng tác nhắc tới đều tạo thành các xúc cảm trong trái tim hồn việt nam.
Bài nghiên cứu 11
Thế kỉ XIX, nửa cuối, quốc gia lâm vào hoàn cảnh loạn li, triều đình nhà Nguyễn đang trên đà suy vong nhưng văn chương chữ Nôm thì cách tân và phát triển mạnh làm hoàn thiện thêm ngôn ngữ tài hoa của truyện Kiều. các Nguyễn Đình Chiểu, Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến… ít dùng chữ Hán làm ngôn từ thơ tựa như các nhà Nho của các thế kỉ trước. Họ đã dùng “chữ Nôm hóa thơ Đường’.
Khi lui về ở ẩn, ngoài ra bài thơ mang nỗi u hoài của cư dân mất nước, họ còn có những tác phẩm trữ tình mang Bức Ảnh thân thiện của miền đất đang sinh sống và làm việc. giữa những nhà thơ ấy có Nguyễn Khuyến. Nhà thơ viết những bài về ngày thu đậm đà tình yêu đồng quê, nội cỏ. giữa những bài thơ khét tiếng ấy là Thu Điếu – Câu cá ngày thu.
Ao thu giá lạnh nước xanh ngắt,
một cái thuyền câu bé tẻo teo.
Nhà thơ đã trình làng không gian, thời hạn và Hình ảnh đặc thù của nông thôn miền bắc bộ. không gian, trước mắt, là ao, thời gian là mùa thu, Tấm hình đặc trưng chính của bài thơ ấy là thuyền câu bé. Tiết trời ngày thu ở miền bắc bộ se lạnh, nước ao hồ ít bị khuấy động, lại thêm trời thu xanh ngắt khiến nước ao thu như trong ngần. Giữa cảnh ao thu như thế có chiếc thuyền câu bé. Vần eo ở các chữ trong hai câu mang cái thần của nghệ thuật chọn từ, “ẻo” trong từ lẻo, “eo” trong từ veo, tẻo teo càng làm gia tăng độ lạnh, độ trong & sự bé bỏng giữa khí hậu mùa thu, của nước & chiếc thuyền câu. Ao thu ở vùng quê đâu có rộng nhưng bỗng thấy bao la, thuyền câu đâu có nhỏ nhưng vẫn thấy nó bé bội phần sao với ao thu. Nguyễn Khuyến chọn từ để tả cảnh như thế đấy.
Nếu ở 2 câu đề, tác giả phác thảo khoảng không chính ao thu rất tĩnh lặng thì ở hai câu thực tác giả bước vào cụ thể, mở rộng không gian:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
lan rộng ra không gian để thấy gió qua Bức Ảnh sóng biếc lăn tăn, chiếc lá vàng đưa vèo, chao xuống. Có một ít man mác buồn trong cảnh thanh vắng của vùng quê. Có gió hiu hắt mới, có sóng biếc, có lá vàng… Gió thu của Nguyễn Khuyến nhè nhẹ, gần trôi, trên mặt nước cũng không hề thiếu gió heo may và lá vàng. Ngày trước, biết tới mùa thu khi thấy “ngó đồng hóa điệp lạc”, tới thời Nguyễn Khuyến có “lá vàng trước gió”, Tản Đà với “Trận gió thu phong rụng lá hồng”, Xuân Diệu cũng có những dòng:
Đây mùa thu tới ngày thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
ngôn từ thẩm mỹ và nghệ thuật có không giống nhau nhưng sắc thu vẫn thế, vần gió se lạnh, vần lá vàng bay …
Từ không gian trên ao, quanh bờ ao, nhà thơ mở rộng tầm nhìn:
Tầng mây lơ lủng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Khung cảnh ao thu hiện nay đã có bổ sung thêm khung trời xanh ngắt như trong bài Thu vịnh. toàn bộ đều là các sự vật vạn vật thiên nhiên, kể cả ngõ trúc quanh co. bức họa ao thu, thiên nhiên nông thôn miền bắc bộ được vẽ các nét đơn sơ, mộc mạc như vậy, như một bức tranh thủy mặc của 1 họa sỹ điêu luyện mang con tim nồng thắm tình yêu thôn dã. Khó để có bức họa ao thu như vậy nếu tác giả không có con tim yêu quê và không tồn tại cặp mắt sắc sảo, không tồn tại các giác quan bén nhạy chọn những cụ thể phù hợp với tâm hồn. Chiếc thuyền câu bé nằm ở trong hai câu đề như vắng bóng con người, ngõ trúc quanh co cũng đành cho con người nhưng người không hề thấy có. toàn bộ chỉ là cảnh tĩnh lặng, mênh mang. Nếu có chút động đậy thì chỉ là những động hờ từ phong ấn trời đem đến. chúng ta thử đặt câu hỏi: Trong thời mình, thời cực thịnh của Lý – Trần – Lê chẳng hạn, nông thôn ở quê nhà Nguyễn Khuyến nói riêng, nông thôn miền bắc nói chung có quạnh vắng, cô liêu; có cảnh ngõ trúc quanh co khách vắng teo đến như thế? – có lẽ rằng nào?! bức tranh thu ở nông thôn khu vực miền bắc trong thời bình không thể im lặng đến thế. Thế thì tại sao? chúng ta có thể lí giải, bàn luận một cách đơn giản dễ dàng khi lật lại những trang sử thời buổi của nhà thơ. & nhìn vào bức chân dung, vị thế con người ở cả hai câu kết:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ở câu thừa đề (câu 2), Bức Ảnh một cái thuyền là Hình ảnh hoán dụ thì ở câu kết (câu 7) có mặt Bức Ảnh chính: con người. vị thế của con người tựa gối ôm cần thu nhỏ lại, chiếc thuyền đã nhỏ xíu con người ngồi tựa gối ôm cần càng nhỏ thêm hơn, như đang chim đắm vào cõi suy tư. Dù tác giả chẳng dùng từ Hán – Việt, nhưng khi gặp Bức Ảnh tựa gối ôm cần có người nghĩ đến tích xưa: Khương Tử Nha đời nhà Chu ngồi câu cá chờ thời bên sông Vị Thủy, và sau là kẻ đánh không khớp lắm với đời hoạt động của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến không là kẻ mong chờ cơ hội mà là một trong người đã từng có lần làm quan, nay lui về ẩn dật chỉ vì không hề mong muốn cam tâm làm tay sai cho giặc trong lúc triều đình Huế thì bảo thủ, ươn hèn. Trong nỗi buồn vận nước suy vong ấy, có lẽ rằng nhà thơ mượn thú câu cá để giải sầu. Nhưng khi buông câu chờ cá cắn, nỗi sầu ấy lại hiện về càng lúc càng sâu nặng. Một con cá gì đó khuấy động bèo thu làm nhà thơ trở lại với thực tại trốn chạy nỗi buồn của kẻ sĩ bất lực trước I nỗi dau của dân, của nước.
Thu Điếu mang ngày thu, hồn thu của làng quê việt nam qua ngôn ngữ thơ thuần Việt. Tài của nhà thơ là biến lời nói dân gian thành ngôn từ thơ trong sạch và đơn giản và giản dị, tinh lọc các Tấm hình đơn sơ nhưng vượt trội & mô tả 1 cách thật tự nhiên làm trông rất nổi bật cái im re bao la của trời đất, giữa cái im thin thít mênh mông ấy chính là tâm sự u uẩn của con người. nghệ thuật và thẩm mỹ ấy mang tới cho người đọc sức rung cảm thấm thìa. & như thế, có người cho rằng Nguyễn Khuyến là một trong những bậc thầy sử dụng ngôn ngữ trong thơ quả là xác đáng.
Bài nghiên cứu 12
mùa thu luôn là đề tài được các nhà thơ nhàn văn ưu ái chọn lựa bởi vẻ đẹp man mác, đầy bí ẩn mà hấp dẫn của nó. tất cả chúng ta phát hiện điều ấy trong bài thơ câu cá màu thu của Nguyễn Khuyến, nó là một trong bài thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến Nằm ở phía trong tập thơ thu gồm ba bài là Thu Vinh, Thu Điếu và Thu ẩm. Bài thơ Thu Điếu biểu đạt vẻ đẹp tĩnh lặng của ngày thu ở vùng quê xưa, bộc lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của 1 nhà Nho nặng lòng với quê hương giang sơn.
Nếu trong bài thơ Thu vịnh, mùa chiếm hữu được nhà thơ Nguyễn Khuyến cảm nhận từ cái khoảng không thoáng mát, bao la, mênh mông “Trời thu xanh ngắt mất tầng” thì sang đến Thu điếu, nhà thơ lại gói gọn ngày thu trong môt bầu trời hẹp hơn là ao thu- đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của người sáng tác.
Ao thu lạnh buốt nước trong veo
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Cách phối hai vần “eo” cho ta một cảm hứng lạnh lẽo, yên tĩnh một cách quái lạ. Câu thơ được chèn thêm hai từ “lẽo” & “veo” càng như tô đậm hơn khung cảnh tĩnh lặng hơn thế nữa. Khung ao tuy hẹp nhưng tác giả đã không giới hạn nó mà mở ra nhiều chiều, trong cái không gian se lạnh đó Hình như khiến cho ao cá ở độ thu về trong trẻo hơn biết bao. Trong cái khung cảnh trống vắng, yên tĩnh lại sở hữu sự xuất hiện của “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” để cho không gian tĩnh có thể trở nên có động hơn, cảnh thu góp phần ấm cúng hơn vì có Bức Ảnh của cuộc sống con người nơi đây. Tấm hình chiếc câu cá làm cho đối tượng người sử dụng mô tả trở nên gần gũi biết bao. Nếu hai câu đầu, nhà thơ sử dụng các từ ngữ gợi hình, tạo độ gợi, độ liên tưởng cao như “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang về nỗi buồn man mác, sự vắng vẻ thì hai câu tiếp theo sau
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo
Càng làm không khí yên bình hơn, nhà thơ sử dụng Hình ảnh động của “lá vàng” để miêu tả cái tĩnh của cảnh quan thu nước ta. Ao thu không hề sự “lạnh lẽo”, sự tĩnh lặng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng theo gió khẽ đưa vèo”, cảnh vật có vẻ đã bắt đầu đổi khác. Bức Ảnh con “sóng biếc” nhỏ “gợn tí”và “chiếc lá” mải mê theo gió “đưa vèo” tưởng chừng như xích míc với nhau, nhưng thật ra ở đây nhà thơ đã quan sát kĩ càng từng hành động rất nhỏ. chắc rằng phải có 1 con tim yêu vạn vật thiên nhiên vô cùng, yêu cuộc sống thường ngày thâm thúy thì Nguyễn Khuyến mới hoàn toàn có thể cảm nhận được các Hình ảnh, những âm thanh sắc sảo, tưởng như chẳng ai chú ý như vậy. tất cả tạo nên một không gian mở theo chiều sâu, chiều cao làm nên một sự rộng rãi, thoáng đạt cho cảnh sắc đất trời vào thu.
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tù xưa đến lúc này, Hình ảnh bầu trời thu trong xanh vẫn luôn là biểu tượng đẹp của màu thơ. những áng mây cứ thả mình trôi “lơ lửng” khắp bầu trời thoáng mát, êm đềm, yên bình & nhẹ nhàng. Ông lộ diện một khoảng không đầy cảm xúc, rộng thoải mái chen vào đó còn là cảnh quan àng quê với Bức Ảnh tre trúc, các ngõ xóm quanh co,…tất cả đều thân mật nhuốm màu thôn quê nước ta.”Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” gợi một sự im re đến cả không có một tiếng động nhỏ nào làm người đọc liên tưởng đến việc cô đơn, trống vắng. Nhà thơ tinh tế và sắc sảo lấy cảnh ngụ tình để biểu lộ sự đơn độc của chính bản thân mình. những đường nét quê hương yên bình, bình dị in đậm trong từng câu thơ của Nguyễn Khuyến.
Đến hai câu thơ kết thì bức họa đồ thu có sự xuất hiện mớ lạ và độc đáo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
độc giả chờ đến tận hai câu kết để thấy được sự xuất hiện của người câu cá, ông có mặt với tư thế vô cùng nhàn nhã: tựa gối ôm cần. Người câu cá đang ru mình trong giấc mộng mùa thu thì ông vẫn cảm nhận được các tiếng động nhỏ “cá đớp” mồi dưới chân bèo. có lẽ trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, Dường như việc câu thú là thú vui thanh trang của nhà thơ để quên đi chốn quan trường, thả mình vào vạn vật thiên nhiên để quên khuấy các bận lòng với nước non. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng đơn độc & lặng lẽ, 1 cuộc đời thanh bạch, một con tim thanh cao đáng khâm phục trọng.
Đến với các vần thơ thu của Nguyễn Khuyến, ta thấy được 1 màu thu nên thơ, trữ tình đến lạ, cảnh màu thu trong thơ ông mang nét rực rỡ riêng in đậm chất thu của quê hương người sáng tác, màu thu của vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (thu điếu), & cái “lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm mê đắm lòng bao thế hệ người hâm mộ. Nhận xét về chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diêu có viết “Bài thơ thu vịnh là có thần hơn cả nhưng ta vẫn phải nhận ra thu điếu là điển hình nổi bật hơn hết cho ngày thu của làng quê Việt Nam”. Phải công nhận một điều, bài thơ thu điếu là bài thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút, sự hài hòa và hợp lý cân bằng giữa điệu thơ nhẹ dịu bâng khuân với việc vận dụng tài tình của bút pháp thẩm mỹ và nghệ thuật vô cùng điêu luyện, cách gieo vần của tác giả, toàn bộ tạo cho một bài thơ câu cá màu thu đi sâu vào lòng bạn đọc.
Bài thơ câu cá ngày thu của Nguyễn Khuyến là 1 bài thơ nổi tiếng, là 1 trong bài thơ ẩn chứa các giá trị nhân văn thâm thúy. Bài thơ biểu thị được tâm tư của nhà thơ đối với quê nhà non sông & con người việt.
Bài phân tích 13
ngày thu là đề tài cuốn hút những nhà thơ từ cổ chí kim. và thơ hay về mùa thu cũng không phải là hiếm. tuy nhiên người đọc, khi tìm đến các vần thơ thu, không nhiều người hoàn toàn có thể quên được ba bài thơ khét tiếng của Tam Nguyên Yên Đổ. Chính ba bài thơ này đã đưa Nguyễn Khuyến trở thành nhà thơ kiệt xuất của làng cảnh việt nam. trong những bài thơ toàn bích ấy, Thu điếu có 1 địa điểm khá nổi bật bởi vì nó “điển hình hơn cả” cho mùa thu xứ Bắc (Xuân Diệu).
Về thực chất, Thu điếu vẫn chính là bài thơ được viết theo lối đề vịnh, tả cảnh để diễn tình. Tài hoa của Nguyễn Khuyến là ở chỗ: dẫu bị gói gọn trong hạng mục của một bài thơ Đường luật, tuy nhiên lời thơ trong suốt tới mức không thể có 1 điển tích điển cố nào. không chỉ có vậy, nhà thơ không tuân hành các điều khoản chặt chẽ về hình thức đề – thực – luật – kết thông thường mà ưu tiên cho cảnh (chiếm sáu câu đầu) chỉ dành hai câu cuối để rỉ tai đi câu.
bức họa đồ phong cảnh được xuất phát điểm từ “ao thu”:
Ao thu lạnh mát nước trong xanh
một cái thuyền câu bé tẻo teo.
nếu mà ở Thu vịnh, cảnh thu được chào đón từ tầm xa thì ở Thu điếu cảnh lại được mừng đón ở tầm gần. “Ao thu” như 1 tiêu điểm để theo đó, bức họa đồ về mùa chiếm được nối dần cao, ra xa. phong cảnh, không khí hiện ra trong sự tĩnh lặng gần như tuyệt vời – và sự vật: “chiếc thuyền” cũng như cố thu nhỏ lại, trước là để phù hợp với “ao thu”, sau là để khuôn cảnh thu vào trong một khoanh vùng nhất định. những vần “eo” hóc búa được gieo tiếp tục nhau vừa minh chứng tài nghệ của người cầm bút, vừa khiến cho khoảng không, từ chiếc ao, chiếc thuyền có thể trở nên gần cận, xinh tươi trong sự bình yên. Đến với câu thơ bắt đầu người đọc rất đơn giản có xúc cảm rùng mình trước sự lanh tanh của cái “trong veo” đi liền với cái “lạnh lẽo” định tính.
Sóng biếc theo làn hơi gợi tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Đến đây mới thấy sự sống cựa mình. Cựa rất khẽ: “hơi” “khẽ”. Cái lạnh toả ra từ nước, cái lạnh theo gió thổi vào, khiến cho ao hơi lăn tăn sóng, tương đối đầy đủ để chiếc lá chao xuống nền thu… Phải là người có đầu óc quan sát rất tinh, nhập vào hồn của cảnh mới phân biệt được cái biến thái tinh vi: hơi gợn tí, khẽ đưa vèo… nói đến ngày thu, Nguyễn Khuyến không dứt ra được cái màu vàng đặc thù, gợi cảm của nó. Nhưng đây Chưa hẳn màu vàng do “non phơi bóng” trong thơ Nguyễn Du; cũng không mênh mông như trong thơ Bích Khê về sau: “Ô hay, buồn vương cây ngô đồng – Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông”. màu vàng ngày thu, qua hình hài của chiếc lá, thả một “điệu rơi” khẽ khàng bóng, xanh tre… Trước hai câu thơ này, Xuân Diệu thán phục: “Cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3 – 4 (…) Thật tài tình, nhà thơ đã kiếm được cái tốc độ bay của lá, “vèo”, để tương xứng với khoảng độ gợn của sóng; “tí” & vừa, tất cả mùa chiếm hữu được phủ quanh trong cái “toan” xanh to lớn da trời xanh ngắt (cả ba bài thơ của Nguyễn Khuyên đều nói đến greed color “muôn đời” này của ngày thu. điều ấy cho biết thêm, cách pha chế sắc tố, cách tạo đường nét trong Thu điếu đậm chất sắc hội họa phương Đông. bức tranh chiếm lĩnh được phác vẽ bằng không nhiều cụ thể chi tiết nhưng đầy ấn tượng. Gần & thấp thì có ao, có thuyền, có sóng, cao hơn vậy thì có lá & cao hơn là trời xanh, tầng mây. Cảnh hoàn toàn im re, nếu có xao động một chút: “khẽ đưa” “rơi vèo” thì cũng là để nhấn mạnh thêm đặc điểm thanh vắng ấy. những đám mây cao xa lờ lững, lơ lửng như đính hờ, đính nhẹ vào áo thu xanh. Mùa thu được nhìn lên rồi lại được nhìn xuống. “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Luật viễn cận dược phối kết hợp thật hài hòa và hợp lý. Cái tĩnh mịch đến cả gần như hoàn hảo nhất của cảnh thu hoàn toàn khớp ứng với tình thu. “Biết bao thời hạn đã trôi qua trong khoảng không trong sáng yên bình ấy? Chắc là rất mất thời gian, tư thế ngồi của ông câu như cũng bất động trước thời gian”. Đúng vậy, bài thơ thủ thỉ đi câu, nhưng chỉ có hai câu thơ cuối bài mới nói đến người đi câu, nói đến cá đớp chân bèo:
Tựa gối, ôm cần, lâu chătng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Cái tư thế của ông câu – giống hệt như cảnh – cũng đang cố thu nhỏ lại. có vẻ như ông không xem xét chuyện đi câu. Vậy thì ông câu đang sẵn có tâm trạng nào chăng? Trước hết, người đi câu “bất động” bởi đang lặng im giao cảm với vạn vật thiên nhiên, lặng im để chọn cảnh thu, hồn thu “xâm chiếm lòng mình”. Hay nói khác đi, tâm hồn thi nhân đang rộng mở trước cảnh thu. Cái trong, cái tĩnh của hồn người ứng với cái trong cái tĩnh của cảnh thu, hồn thu. cho đến nay, chưa ai biết được đích xác Nguyễn Khuyến viết bài thơ này vào bao giờ. Nhưng có điều chắc rằng, nó được viết trong khoảng thời gian nhà thơ từ quan về quê, sinh sống trong cảnh thanh bần. Lánh đục để về trong, nhưng đâu phải chỉ thi nhân không đau xót trước bụi trần, không chán ghét cảnh tất bật. thế cho nên, trong cái tư thế “tựa gối ôm cần” kia, biết đâu chẳng trĩu nặng tâm tư của người đi câu? Chỉ đến khi “cá đâu đớp động” mới khiến nhà thơ khi giật mình trở lại với thực tại. Trong cái giật mình ấy, ta nhận ra chủ ý của người đi câu là “khát vọng câu thanh, câu vắng cho con tim của một nhà thơ có phẩm cách thanh cao” (Trần Đình Sử), chứ không hẳn để vui chơi giải trí đơn giản.
cùng theo với Thu ẩm và Thu Vịnh, Thu điếu đã góp thêm một bức họa thu đẹp long lanh bởi một chuyên môn “chạm trổ” thẩm mỹ bậc thầy. Làng quê VN, qua những cụ thể chi tiết hốt sức chọn lọc, giàu sức gợi đã hiện lên với tất, cả sắc đẹp phẳng lặng, đầy chất thơ trong sáng. Trong cái im re đến bao la ấy của cảnh thu, hồn thu, ta phát hiện một nỗi niềm, một khát vọng Nguyễn Khuyến: được “câu thanh, câu vắng”, được giữ trọn khí tiết của bản thân mình. đây là một khát vọng đáng quý của một nhân cách đáng trọng.
Bài phân tích 14
Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tâm lý Lão Trang & triết lí Đông phương. Thơ chữ Hán của ông số đông là thơ trữ tình. có thể nói rằng cả trên hai nghành nghề, Nguyễn Khuyến đều chiến thắng. Thu điếu được trích từ chùm thơ thu gồm ba bài: Thu điếu, thu vịnh. Cả ba thi phẩm đều được viết bằng từ chương, bút pháp thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh của văn học trung đại, nhưng vẫn mang đậm dấu ấn riêng của trong những bậc thầy thơ Nôm đường luật xuất sắc.
Cảnh vật được đón nhận từ gần đến cao xa rồi từ cao xa trờ lại gần. Từ điểm nhìn của một người ngồi chiếc thuyền nhìn ra mặt ao, nhìn lên khung trời, nhìn tới ngõ vắng rồi lại trở người về với ao thu, nhà thơ đã quan sát không gian, cảnh sắc thu theo người lương thật nhộn nhịp.
“Ao thu nóng sốt nước xanh ngắt,
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Nguyễn Khuyến đã chọn những chi tiết cụ thể rất tiêu biểu vượt trội cho mùa thu xứ Bắc (ao thu, gió thu, trời thu). Ao thu là thứ ao rất riêng chỉ ngày thu mới xuất hiện. Nguyễn Khuyến đã ghi nhận được hai đặt trưng của ao thu là nóng sốt & trong xanh – ao lạnh nước yên, trong đến tận đáy. Ao là nét thường gặp trong thơ Nguyễn Khuyến, nói đến ao là gợi đến một chiếc gì thân quen, không còn xa lạ, con tim Nguyễn Khuyến là thế: thân thiện, bình dị, chân thành với hồn quê. Trời thu xanh ngắt cũng là hình rất gần gũi trong thơ Nguyễn Khuyến. bầu trời thu xanh ngắt lâu nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. các án mây không trôi nổi bay khắp bầu trời mà lơ lửng. trong xanh trong thơ Nguyễn Khuyến là xanh trong, tinh khiết đến tuyệt vời nhất, không hề pha lẫn, không thể gợn tạp.
Đường nét chuyển động nhẹ dịu, mảnh mai, tinh tế: hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, mây lơ lửng, đường bao thanh mảnh của rặng trúc, đường gợn của lượn sóng ao thu. Cảnh vật hiện hữu lên sự hài hòa, xứng hợp: Ao nhỏ – thuyền bé; gió nhẹ – sóng gợn; trời xanh – nước trong; khách vắng teo – chủ thể trầm ngâm tĩnh lặng. sau đây Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới cũng đã bắt được những nét nổi bật đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt đầu phi vào những ngày giá lạnh:
những luồng run rẩy rung rinh lá…
… Đã nghe rét mướt luồng trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.
thẩm mỹ và nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả những từ láy vừa tạo hình, vừa sexy nóng bỏng, những tính từ và các từ chỉ mức độ như lạnh mát, xanh ngắt, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, trong veo, vắng teo, quanh co việc chọn lựa vầng eo đã gợi nên cảm nhận mỗi khi một thu hẹp diện tích
Cảnh buồn cảnh chẳng đeo sầu – bức họa đồ cảnh thu đã hé mở cho chúng ta tình thu của người trong cảnh. hợp lý đó là tâm trạng thời thế của nhà thơ? Thời thế đổi khác nhanh quá! Thoáng chốc đất nước đã không còn trong lòng bàn tay đối phương. Thoáng chốc thời cuộc đã vụt qua: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Mặt nước, tầng mây lơ lửng và sắc trời lộ diện không gian cho bài thơ hợp lý và phải chăng cũng đồng thời chứa đựng các nỗi niềm tâm sự liệu có chút gì lơ lửng về thời cuộc? Chọn tuyến phố ở ẩn để giữ trọn thân danh, giữ lấy cái cao khiết để như biểu tượng đăm đắm của bầu trời kia hợp lý đã thật đúng, hay chỉ là để “chạy làng” trong cách nói cay đắng của một vị đại khoa.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo phù hợp là tâm sự đơn độc, cô quạnh? Nguyễn Khuyến có lần tự thấy mình như một cành cô trúc đó thôi! Lẽ loi & đơn độc, vắng teo trước thời cuộc rộn ràng. đó là tâm sự của 1 nhà nho lánh đời thoát tục tuy nhiên vẫn không nguôi nghĩ về giang sơn, nhân dân, về việc bế tắc, bất lực của bản thân? Nhàn thân song không nhàn tâm, Nguyến Khuyến không thể thư thả đi câu như 1 ẩn sĩ thực thụ.
Câu thơ cuối, với tiếng động duy nhất: tiếng cá đớp động. phải chăng đó là âm thanh của cõi lòng người câu cá? Nguyễn Khuyến thì thầm câu cá nhưng thực chất tác giả không chú ý vào vấn đề câu cá. Nói câu cá nhưng thật ra là để tiếp nhận trời thu vào lòng, gửi gắm tâm sự. Cõi lòng tĩnh lặng để cảm nhận độ xanh ngắt của nước, cảm nhận cái hơi gợn của sóng, cảm nhận độ rơi khẽ của lá. đặc biệt cõi lòng yên bình được gợi lên thâm thúy từ là một tiếng động nhỏ: tiếng cá đớp mồi. đó là sự yên bình tuyệt vời và hoàn hảo nhất của tâm cảnh, cõi lòng của thi nhân cũng tĩnh lặng, trong trẻo như làng quê Việt trong tiết thu.
Bài thơ Câu cá mùa thu thể hiện sự cảm nhận và thẩm mỹ và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cho biết tình yêu thiên nhiên, tổ quốc, tâm trạng thời thế về tài thơ Nôm của tác giả.
Bài phân tích 15
ngày thu, mùa của hoa sữa thoảng thoảng, mùa của rơm rạ vàng thơm, mùa được những nhà thơ yêu & đem vào trong số những trang thơ nhiều nhất. Với Hữu Thỉnh nhẹ dịu mùi hương ổi ông đã cảm nhận được thu về: “Bỗng nhận ra hương ổi – phả vào trong gió se- sương chùng trình qua ngõ -hình như thu đã về”. Nhưng mùa thu trong góc nhìn Nguyễn Khuyến thì lại khác. Qua bài thu điếu ta thấy đằng sau cảnh thu yên bình thì lại là nỗi niềm tâm sự sâu kín của người thi sĩ.
Thu điếu viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú, phần lớn tám câu thơ đều tả cảnh, Hình ảnh con người chỉ có mặt ở hai câu cuối. Cảnh của bài thơ vẫn là trời, nước gió, trúc.. những Hình ảnh không còn xa lạ trong thơ xưa.
Ao thu mát mẻ nước xanh ngắt
Tấm hình “ao thu” diễn đạt với tính từ “lạnh lẽo”. có lẽ rằng cái lạnh của ngày thu cũng ngấm dần vào dòng nước & ngấm dần vào con tim nhà thơ. Tính từ “trong veo” biểu đạt dòng nước, khoảng không tĩnh lặng.Nước trong veo chứ không hẳn là lăn tăn gợn sóng, hai âm “eo” được lặp liên tục ở câu trên & câu dưới làm cho xúc cảm về sự tĩnh lặng càng trở nên thật hơn.
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
không gian giá lạnh của mùa thu ấy có mặt chiếc thuyền đơn độc một mình. tác giả dùng từ “bé tẻo teo” để cho chiếc thuyền càng trở nên nhỏ bé thêm hơn, cô đơn hơn. Nhà thơ Nguyễn Du đã có lần nói: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thật đúng cảnh dưới con mắt nhà thơ sao mà buồn tẻ, sao mà đơn độc đến lạ. cuộc sống thường ngày bây giờ yên bình đến không thở được chẳng có âm thanh để chứng minh cuộc sống ồn ã vẫn đang tiếp nối
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
bức họa đồ thu thường xuyên hiện lên Tấm hình “Sóng và lá vàng”. Mọi vận động đều khẽ khàng & nhẹ nhàng như thế “sóng lăn tăn gợn tí”, “lá vàng đưa vèo”. người sáng tác thật sắc sảo về sự việc sử dụng từ tượng hình & từ tượng thanh. Cảnh vật diễn tả theo chiều hướng lấy động tả tĩnh, dù bức họa ấy có âm thanh nhưng âm thanh khẽ khàng quá lại càng toát lên vẻ yên bình của mùa thu
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
khoảng không được lan rộng ra ra cả tầm cao và tầm rộng. “Tầng mây lơ lửng” mây cứ chùng chình lơ lửng, mây cũng chẳng muốn bay. cuộc sống chẳng mau lẹ hay tâm hồn nhà thơ đang sâu đầy tâm tư. khung trời thu “xanh ngắt”, màu sắc đậm nét của bức họa thu, mỗi nét vẽ của Nguyễn Khuyến đếu rất dứt khoát để tả cảnh vật “ đưa vèo”, “hơi gợn tí”, “xanh ngắt”. Mây trời đơn điệu và tẻ nhạt. Còn ngõ trúc “quanh co”,“vắng teo”. Nguyên từ “vắng” đã nói rõ sự yên bình rồi nhưng người sáng tác lại còn sử dụng “ vắng teo” thì có nghĩa không gian thu ấy không âm thanh, không chút cử động, không bóng người chỉ có sắc tố ơ thờ không hòa quyện.
bởi thế hai câu thơ cuối bài là 1 trong những sự trống vắng, là nỗi cô đơn đến thắt lòng
Tựa Gốm ôm cần lâu chẳn được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Đến đây Bức Ảnh con người đã có mặt nhưng lại với tư thế “ ngồi tựa gối”, “ôm cần”. Trong trạng thái trầm tư và sâu cảm, cảnh vật đã cô đơn con người lại càng đơn độc hơn. Nhà thơ ngồi câu lâu chẳng được. Từ “cá đâu” là cách hỏi mơ hồ không triết lý, nhưng cũng có thể là sự việc ngỡ ngàng trong tim người. Nhà thơ chìm sâu trong suy nghĩ miên man, mất cảm giác ở thực tại nên mới “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Nhà thơ muốn tìm sự thư thái trong tâm địa hồn nên mới đi câu. Nhưng cảnh vật tĩnh lặng đến ngẹt thở lại càng làm nhà thơ chìm sâu trong nỗi cô đơn.
Cảnh thu đẹp và buồn trong bài thu điếu đã được Nguyễn Khuyến mô tả thật khôn khéo và tinh tế. xúc cảm, tâm tư của nhà thơ được dồn nén qua từng câu thơ, trong cảnh vật thu ấy. Thu điếu bước vào lòng người nhẹ nhàng và buồn man mác, khiến người đọc biết thêm về làng quê nước ta với những nét đẹp khác.
phân tích bài thơ Câu cá mùa thu 16
mùa thu luôn là một đề tài muôn thủa của các thi sĩ. Trong nền văn học việt nam từ thơ Trung đại cho đến thơ hiện đại, từ thể thơ cổ cho tới thơ chủ quyền, đã có không ít sản phẩm thực tế hay viết về mùa thu, nhưng nói tới đề tài ngày thu, ta vẫn không thể không nhắc tới nhà thơ Nguyễn Khuyến. Với ông, Dường như mùa thu là nguồn cảm giác đặc biệt quan trọng, chẳng vậy mà ông có cả một chùm thơ hay viết về mùa thu, trong những số đó rất nổi bật đặc biệt là bài “Thu Điếu”, hay nói một cách khác “Câu cá mùa thu”.
Chùm thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến gồm có ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu ẩm” & “Thu điếu”. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp, cũng dạt dào tình quê, cảnh quê. dẫu thế, như Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng cam kết bài thơ “thu điếu” là “bài thơ điển hình hơn cả cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam”. Đây quả là lời nhận xét vừa đúng chuẩn, vừa tinh tế!
“Thu điếu” được viết bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn từ sắc sảo, giàu tính biểu tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu, khí thu xinh đẹp của làng quê nước ta hiện lên trong dáng vóc & sắc tố tuyệt hảo dưới ngòi bút Nguyễn Khuyến qua bốn câu thơ đầu:
“Ao thu lạnh mát nước trong veo
Một chếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo.”
Với “Thu điếu” cảnh thu được tiếp nhận theo hướng mở rộng về không gian từ gần ra xa, từ thấp lên rất cao, rồi tiếp đến lại từ cao xa quay trở lại gần. chi tiết là từ chiếc thuyền câu ngó ra mặt ao rồi kế tiếp nhìn lên bầu trời, ngó ra ngõ trúc rồi lại trở lại với ao thu, với chiếc thuyền câu. từ là một khung ao bé xíu, không gian mùa thu được mở rộng ra nhiều hướng thật nhộn nhịp, gần gụi đến chân thật, nhưng vẫn không bị mất đi nét xin xắn tinh tế.
Ở câu thơ đầu, không khí của mùa chiếm lĩnh được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật. Nhà thơ không bắt đầu bằng việc tả phong cảnh ngày thu qua sắc tố như thông thường, mà ông vẽ những nét đầu cho bức tranh thu bằng các nét chấm phá mơ hồ từ không khí thu rất dịu nhẹ, pha chút lạnh se se:
“Ao thu nóng sốt nước trong veo”
Nước ao “trong veo” tỏa hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như che phủ lên tất cả cảnh vật xung quanh. Nước ao thu trong vắt, khí thu lành lạnh lại càng tô điểm, khiến nước thu đã trong lại càng trong. Có cảm xúc như bạn có thể nhìn thấy vài chú cá chậm trễ bơi lưng chừng trên những đám rêu xanh mướt dưới đáy ao vậy! Nước ao trong nhờ khí lạnh, khí lại càng thêm lạnh khi kết hợp với sự trong đến lặng của ao thu. Qủa là việc kết hợp tuyệt vời!
phía trên mặt của nước ao thu trong như ngọc ấy có thấp thoáng Hình ảnh một cái thuyền câu bé nhỏ:
“Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chỉ có độc tôn một chiếc thuyền, không chỉ bé mà lại còn là một “bé tẻo teo”. Cái ao & chiếc thuyền chính là Bức Ảnh trọng tâm của bài thơ, nhưng cũng chính là Tấm hình bình dị, dân dã nhất nơi thôn quê. người sáng tác không thể đặc tả độ rộng của ao thu, thậm chí là khi đọc câu thơ đầu, người đọc rất có thể liên tưởng rằng ao thu tại đây rất nhỏ, vì theo như nhà thơ từng nhắc đến, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam quê nhà có cơ man nào là ao, vì nhiều ao nên ao nhỏ, ao nhỏ thì theo đó mà thuyền câu cũng “bé tẻo teo”. Nhưng đọc câu thơ thứ 2, đùng một phát ta có cảm giác ao thu như rộng hơn lên, chính cái bé bỏng đến “tẻo teo” của thuyền câu lại càng khiến cho ao thu nhỏ xíu trở nên bao la biết mấy. Hai câu thơ đầu với những từ ngữ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” khắc họa đường nét, dáng hình, sắc tố của cảnh vật, của nước ngày thu 1 cách tinh tế và sắc sảo. Cách gieo vần “eo” trong diễn đạt không chỉ là làm tăng cường độ thanh lặng, quạnh vắng của cảnh vật, mà còn tạo cho nhịp thơ âm vang như là tiếng thu, như là hồn thu vọng về.
nếu mà hai câu thơ đầu là các nét chấm phá phác họa bức tranh ngày thu thì cho đến hai câu thơ sau, nhà thơ liên tiếp dùng ngòi bút tài ba, vẽ lên một bức tranh thủy mặc đẹp đến thanh bình:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo”
Màu “biếc” của sóng nước hòa hợp với màu “vàng” của lá đã khắc lên bức tranh quê đơn sơ đấy mà không kém phần long lanh. thẩm mỹ và nghệ thuật đối trong phần thực quả thực rất điêu luyện, “lá vàng” đối với “sóng biếc”; vận tốc “vèo” của lá bay tướng ứng với mức độ “tí” của sóng gợn. ở cả hai câu đề, chúng ta đã thấy được độ trong của nước, nhưng đến đây, ta nhận thấy nước thu không chỉ trong mà còn rất xanh, xanh trong đến độ “biếc” như là ánh lên màu lấp lánh lung linh như ngọc vậy!. Gió thu trong thơ Nguyễn Khuyến cũng rất đặc biệt, Chưa hẳn nhè nhẹ thổi theo khí se lạnh mà lại đủ mạnh để cuốn lá “đưa vèo”. tưởng chừng như nghịch lý nhưng lại rất hợp lý với cảnh sắc đang rất được mô tả ở phần bên trên.
Hai câu luận tiếp tục lan rộng ra không gian mùa thu qua biểu đạt của nhà thơ. bức họa đồ thu có bổ sung thêm độ cao của khung trời nhuộm màu “xanh ngắt” với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Dường như trời thu trong thơ của Nguyễn Khuyến luôn có blue color, mà còn là một màu “xanh ngắt”:
“Trời thu trong veo mấy tầng cao” trong “Thu Vịnh”
hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong “Thu ẩm”.
Màu “xanh ngắt” là không những sắc xanh mà còn có cả chiều sâu, so với trời thu, trong veo là không chỉ là xanh mà còn trong, tạo xúc cảm khung trời có thể trở nên cao và rộng. Trời thu trong xanh, bát ngát một màu thăm thẳm gợi ra cái sâu, cái lặng của khoảng không,cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá trên chiếc thuyền “ bé tẻo teo”. Thế rồi ông lão ấy lơ đãng nhìn ra bốn phía làng quê, đột nhiên nhận thấy không chỉ bầu trời trên cao hay mặt nước phía bên dưới, thậm chí là ngay cả không gian bao quanh cũng trở thành im re, lạng lẽ đến yên bình, thậm chí còn đến đơn độc. cô đơn khi thấy xung quanh không một bóng người, xóm thôn yên lặng, con đường nhỏ phía trước chỉ có mấy khóm trúc khẽ đưa trong gió nhẹ, ngõ vắng quanh co lại càng thêm im lìm. Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá giống như là đang chìm ngập trong giấc mộng tĩnh lặng của ngày thu, tất cả cảnh vật đều tạo nên xúc cảm bâng khuâng, man mác nhưng không chính vì như vậy mà trở nên xa lạ, trái lại rất thanh bình, gần gũi đúng chất làng quê nước ta.
Khung cảnh ấy càng trở nên thôn dã, đơn giản khi xuất hiện rõ nét Bức Ảnh cả một người ngồi trên thuyền câu cá ở cả hai câu kết:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Tư thế “tựa gối ôm cần” xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến là 1 trong những Tấm hình đẹp, đẹp đến bình dị. phải chăng đó là tâm thế nhàn của 1 thi sĩ đã thoát khỏi vòng danh lợi.? Tấm hình con người có mặt liên đới với tư thế bó gối càng tô điểm cho bức họa đồ thu thêm sinh động.Tuy nhiên, nhà thơ ngồi câu cá đấy mà lại chẳng chú tâm tới sự việc câu , chẳng vậy mà lại bị giật mình trước tiếng “cá đớp động dưới chân bèo”. hợp lý và phải chăng nhà thơ còn mải thả hồn thi sĩ nhìn ngắm trời xanh, còn ngắm dòng nước hơi gợn tí, đưa mắt nhìn lá vàng trước gió khẽ đưa vèo, rồi lại bất chợt vu vơ buồn trước ngõ trúc vặng lạnh quanh co nên mới bị bất ngờ trước thanh âm nhỏ nhắn ấy? không gian hẳn phải yên tĩnh lắm, tâm hồn hẳn phải trong trẻo, và lắng đọng lắm mới rất có thể nghe, có thể cảm thứ âm thanh như vậy! tuy nhiên, dù là có mặt âm thanh nhưng khoảng không mùa thu vẫn hoàn toàn yên tĩnh, vì quá tĩnh nên mới nghe thấy thứ âm thanh mỏng dính và nhẹ như thế, nghe được cả tiếng lá rơi, tiếng cá động mà vẫn thấy tĩnh, đó mới đó là cái tài trong nghệ thuật lấy động tả tĩnh của hồn thơ quê Nguyễn Khuyến.
tới mức sự đột ngột trước âm thanh cá đớp động chân bèo của Nguyễn Khuyến cũng khá lạ, rất thú vị. Hay tại phần nhà thơ sử dụng từ “cá đâu”. “Cá đâu” là cách hỏi vừa tạo sự mơ hồ trong khoảng không vừa gợi ra sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ có vẻ như nhất thời mất đi cảm nhận về không gian thực tại mà chìm đắm trong khoảng không suy tưởng nên không còn lập tức định vị được hướng tạo ra tiếng động mặc dù đang nằm phí trong một chiếc ao rất nhỏ. Nguyên Nhân ư? Vì nhà thơ câu cá mà Chưa hẳn để bắt cá! Câu cá chỉ là cái cớ để tìm sự tư thái trong lòng hồn, để tĩnh tâm, để lôi cuốn hết hương sắc ngày thu vào trái tim nhạy cảm của người thi sĩ. Vậy mới nói bài thơ Chưa hẳn kể chuyện câu cá vào mùa thu mà đó là mượn việc câu cá để tả trời thu, để khen ngợi trời thu.
Trước Nguyễn Khuyến có không ít thi sĩ viết về mùa thu,sau Nguyễn Khuyến thơ hay viết về mùa thu cũng Chưa hẳn là không có, dẫu thế, “Thu Điếu” vẫn luôn mang một sắc thu riêng, không lẫn lộn. Cảnh thu trong bài thơ là cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng & buồn, khoảng không vắng lặng nhưng không tạo xúc cảm cô độc, sầu não. trái lại, còn nhờ này mà mở ra một bức họa nhộn nhịp đẹp tuyệt về làng quê cổ VN, quen thuộc, rất thanh bình.
Bài nghiên cứu và phân tích 17
Thu trong thơ Nguyễn Khuyến tiêu biểu cho ngày thu ở đồng bằng Bắc Bộ. Thu trong thơ ông thật êm đềm, đơn sơ nhưng rất chi là sôi động, làm say đắm lòng người. Trong chùm thơ về ngày thu của ông bài Thu điếu để lại nhiều ấn tượng trong tim người đọc.
ngày thu là mùa đẹp nhất trong năm của vùng đồng bằng Bắc Bộ, hòa cùng vào cảnh vật con người cũng bộc lộ nỗi niềm cảm hứng của chính mình. Đọc Thu điếuchúng ta sẽ cảm nhận được sắc đẹp của cảnh thu và tâm trạng của nhà thơ. nếu như ở Thu Vịnh, cảnh thu đựơc mừng đón từ cao, xa đến gần, rồi gần đến cao, xa thì ở Thu Điếu cảnh sở hữu được chào đón từ gần đến cao – xa rồi từ cao xa quay về gần. Điểm nhìn cảnh sở hữu được nhìn từ chiếc thuyền câu đến mặt ao rồi nhìn lên khung trời, nhìn tới ngõ trúc rồi nhìn ra mặt ao. Từ khung ao hẹp tác giả diễn tả mùa thu đựơc cả không gian và thời hạn phong cảnh ngày thu mở ra nhiều hướng thật sinh động.
Ngay từ tiêu đề của bài, người sáng tác đã muốn reviews đến người đọc về cảnh câu cá mùa thu , nhưng thực ra này lại là thì thầm mùa thu, diễn tả cảnh mùa thu của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, quê nhà của tác giả Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ có ao thu, thuyền câu, có lá vàng, có tầng mây, có sóng, có cá và người câu cá. không gian ngày thu, lặng ngắt và chính vì sự lạng lẽ này mới tả được khoảnh khắc lặng lẽ âm thầm của ngày thu và tả được tâm trạng, tĩnh lặng của tác giả.
Ao thu lạnh mát nước trong xanh
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Ngay từ câu thơ đầu tác giả đã cho tất cả những người đọc tưởng tượng một khoảng không thu buồn nhưng đẹp, một không gian yên bình không hẳn ở vùng quê nào thì cũng giành được. Hai câu thơ này không chỉ diễn tả được cả không gian mùa thu (ao thu) mà còn mô tả được cả thời gian của ngày thu. Mùa chiếm được thể hiện ở làn nước trong xanh, đã trong lại còn trong veo và thêm giá lạnh. Ao thu lạnh giá càng làm ngày càng tăng độ buồn của mùa thu. chính là mùa thu của lòng của lòng người buồn, của thi nhân buồn mà thôi. ngày thu thường là mùa của tâm trạng buồn, qua hai câu thơ này càng thấy Nguyễn Khuyến đã rất tài tình khi mô tả khung cảnh mùa thu. Chiếc thuyền câu vốn đã bé lại càng bé tẻo teo. Hai vầng eo càng làm cho khoảng không càng thêm thu nhỏ lại.
làn nước xanh ngắt, nhưng lại mát rượi hai sự phối hợp đó đã làm cho khoảng không tại chỗ này có phần mông lung & như tan ra cùng sự lạnh buốt của ao mùa thu. ngày thu nước ao mới trong veo như vậy để cho khoảng không thêm nhỏ, chiếc thuyền đã bé lại bé thêm, như thu mình thêm nhỏ lại.
Trong không gian im re dịu dàng êm ả đó, mọi không gian cảnh vật như hòa vào nhau, làm mọi cảnh vật đều gợi cho ta xúc cảm buồn.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Phải nói rằng, con mắt nhà thơ phải thật sắc sảo mới rất có thể nhìn được & cảm nhận được sự chuyển động rất nhỏ của cảnh vật, sóng chỉ hơi gợi, gió ở đây rất nhẹ chỉ tạo đủ độ để sóng gợn mà thôi. Khung cảnh mùa thu đượm buồn như im lìm, lặng lẽ âm thầm, chỉ có chiếc lá khẽ đưa mà thôi, không tạo thành âm thanh từ khẽ diễn đạt được cả âm thanh, đó là âm thanh, chính là âm thanh, tĩnh chứ không động, tả được cái trạng thái yên bình của ngày thu. Ngày cả từ vèo cũng như vậy đó không những bay qua của chiếc lá khi có làn gió mà từ vèo này còn được xem là bộc lộ tâm trạng, thời thế của nhà thơ, một tâm sự đầy đau buồn trước thực trạng của nước nhà đầy đau thương.
không chỉ có tạm dừng ở việc diễn tả cảnh ao thu, bằng con mắt sắc sảo của bản thân mình, tác giả diễn đạt rộng ra đó là cảnh trời ngày thu. cảnh quan trời tác giả biểu đạt rộng ra đó là cảnh mặt trời ngày thu. phong cảnh trời mùa chiếm lĩnh được nhìn rộng ra từ mặt ao, từ khung cảnh rộng đó tác giả nhìn xa:
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Khung cảnh trời thu thật đẹp, mây lơ lửng trôi trên nền trời trong xanh, có điều đám mây có vẻ như buồn, không mong muốn trôi. tại đây từ lơ lửng này còn được xem là tâm trạng tâm lý của người sáng tác về một vấn đề nào đấy chưa quyết định rõ rệt. Từ trời thu tác giả nhìn xuống, nhìn xa ngõ trúc. khoảng không lại trở nên im re buồn thảm không chỉ có vậy việc khách vắng teo lại càng làm tăng thêm không gian của ngày thu. Cái vắng lặng, không gian buồn của mùa thu không tạm dừng ở không gian của cái ao mà nó còn lan phủ rộng trời đất, mây thì lơ lửng không buồn trôi. Ngõ xóm trước kia đông đúc người qua lại là vậy mà giờ đó cũng vắng teo. tuyến đường cũng trở thành quanh co. toàn bộ mọi vật đều yên lặng trong khung cảnh ngày thu.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
ở đầu cuối thì Hình ảnh người câu cá cũng sẽ có. trải qua đôi nét diễn tả việc tựa gối câu cá, thì Hình ảnh ông già ngồi câu cá mới hiện lên rõ nét. Tư thế có mặt của ông già câu cá cũng tương tự cảnh vật có thể trở nên buồn, ông không ngồi trong thế của người câu cá mà bó buộc tựa gối. Ta thường biết khi câu cá con người ta cảm thấy dễ chịu nhất thì ở chỗ này ông già ngôi câu cá không được sự thoải mái và dễ chịu, thanh bình cúi người và tựa mặt lên đầu gối giống như là đang suy nghĩ một điều gì. Đó phải chăng cũng chính là người sáng tác đang trăn trở buồn rầu về thế sự.
Hình như ông già câu cá ngồi câu cho có thú vui, chứ không hề thấy bóng dáng của chú cá thì ngồi câu cũng đâu được gì. Sự chờ đón của ông già câu cá đó cũng là một sự mòn, về sự im lặng, trống không. Một tiếng động quậy nhẹ của con cá dưới chân bèo. Nhưng tiếng động đó cũng nhẹ, một tiếng động một mình, lại càng làm ngày càng tăng sự vắng tanh lặng lẽ âm thầm của khoảng không mùa thu. Ở câu cuối sử dụng ba âm đ ( đâu, đớp, động) ta cảm xúc như động và lại không động, chỉ đủ diễn đạt đủ sự quẫy đuôi nhẹ của con cá.
nói theo cách khác khung cảnh ngày thu trong Thu điếu thật yên bình, nữ tính, nhưng buồn. Khung cảnh đó càng gợi cho tất cả những người ta tâm trí chiêm nghiệm về cuộc sống thường ngày. Một sự vận động đều nhẹ dịu, rất khẽ sự im lặng này lại tăng lên sự yên bình của cảnh. Cái tĩnh bao phủ được gợi lên từ cái động rất nhẹ. thủ pháp lấy động tả tĩnh là thủ thuật rất gần gũi của thơ cổ phương Đông.
người sáng tác đã dùng thủ pháp gieo vần theo vần eo trong bài, để làm ra tĩnh mịch im lìm trong khung cảnh ngày thu gợi lên cái gì thu hẹp lại, nhỏ lại, lắng vào hư không nó cũng góp thêm phần để cho không khí yên lặng được gia tăng.
Bằng sự cảm nhận tinh tế của tác giả về ngày thu, ta cảm nhận được ở tác giả một tâm hồn gắn bó thiết tha với thiên nhiên, 1 tấm lòng yêu nước thầm kín. Nhà thơ đã vẽ lên một mùa thu đơn giản, thanh đạm, đơn sơ, nhưng đẹp của làng quê VN.
Bài nghiên cứu và phân tích 18
Nguyễn Khuyến là nhà thơ trữ tình lớn của văn học VN cuối thế kỉ XIX đầu XX. những sản phẩm thực tế của ông hầu hết biểu thị tấm lòng ưu tiên với dân, với nước của người trí thức và tình cảm gắn bó với con người nơi làng quê nước ta.Bài thơ “Câu cá mùa thu” là 1 trong những sản phẩm thực tế như thế. Lấy cảm giác từ đề tài ngày thu quen thuộc, bài thơ đã vẽ nên một bức họa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ, thông qua đó biểu thị tấm lòng của thi nhân.
Bài thơ “Câu cá mùa thu” nằm ở trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến. sản phẩm thực tế đã vẽ nên một bức họa đồ về một chốn thu thanh sơ mang đặc thù của ngày thu nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. khuất sau đó là nỗi niềm tâm sự thầm kín của một hồn thu thanh cao.
Trước hết, bài thơ lộ diện bằng Hình ảnh ao thu:
“Ao thu lạnh mát nước trong xanh
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.
Tấm hình chiếc “ao thu” gợi không gian gian không còn xa lạ, thân cận nơi làng quê xứ Bắc. Từ láy “lạnh lẽo” kết phù hợp với tính từ “trong veo” khiến Hình ảnh ao thu mang đầy chất thơ. Tạm quên đi các cơn mưa rào xối xả của mùa hạ, ao thu có vẻ như thấm đẫm cái lạnh se sắt của gió heo may, lắng đến độ như được lọc, trong vắt đến tận đáy. Trong không gian của trời thu, nắng thu, gió thu ấy, ta bắt gặp Hình ảnh “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Số từ “một” gợi sự cô đơn, rất ít , giữa ao thu, chỉ có độc nhất một chiếc thuyền câu bé bỏng. Từ láy “tẻo teo” gợi sự bé nhỏ , xinh xắn cùng cách gieo vần “eo” tài hoa không chỉ mang về cái hồn của cảnh vật mà còn đem về cảm hứng phẳng lặng một cách quái lạ. Bằng bút pháp chấm phá, nhà thơ đã phác họa một khoảng không gian ngày thu trong sáng, gần cận & tĩnh lặng. ở bên cạnh khoảng không gian ngày thu trong trẻo, nhà thơ còn biểu đạt mùa thu bằng các nét vẽ đầy tinh tế và sắc sảo, ngập cả sắc tố và âm thanh:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.
không gian ngày thu Hình như có sự hoạt động tinh tế từ gần vươn ra tới cao, xa rồi lại hội tụ về gần. Sự thay đổi điểm nhìn không chỉ có đem lại ánh mắt đa chiều cho cảnh vật mà sự vận động từ “ao thu” rồi quay về “ao thu” khiến cả đất trời như thu lại, nép mình trong chiếc ao bé xíu. lân cận ao thu, thuyền câu, hiện giờ xuất hiện “sóng biếc”, “lá vàng”, “tầng mấy”, “ngõ trúc”. Mỗi một sự vật tạo nên sự một nét thu mềm mại và mượt mà, uyển chuyển mà thanh thoát, một dáng thu ý nhị mà mộc mạc. bức tranh thu ấy còn hiện lên trong sự hòa phối giữa sắc xanh và vàng mà nổi bật hơn là ở những “điệu xanh”: “xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh trời”. khoảng không phủ kín màu xanh lá cây, chỉ có độc tôn sắc vàng của chiếc lá thu rơi. không chỉ có biểu đạt sắc tố thu, Nguyễn Khuyến còn cảm nhận được tiếng thu, bước thu. Tiếng thu là tiếng sóng gợn nơi ao lạnh, là tiếng gió hiu hắt đâu đây trên cành trúc, đặc biệt là tiếng lá vàng rơi nghiêng “khẽ đưa vèo”. Khắp không gian cũng chính là các hoạt động chậm rì rì, nhẹ dịu, rất khẽ, rất êm. các Bức Ảnh trong bức tranh thu ấy không tồn tại chút dấu vết nào của công thức, ước lệ, mà thân cận, thân thuộc, trong trẻo, thanh sơ, mang đậm hồn thơ nơi chốn.
nếu mà ở sáu câu thơ đầu, người đọc cảm nhận được một cảnh thu có hồn, xanh ngắt nhưng không âm thầm, những Hình ảnh, cụ thể gần cận, không còn xa lạ, thì ở cả hai câu thơ cuối, bức họa đồ thu lại mang nỗi niềm tâm sự thầm kín:
“Tựa gối buông cần câu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Bài thơ có nhan đề là “Câu cá mùa thu” nhưng phải đến hai câu cuối nhân vật trữ tình mới có mặt. Trong dáng người yên bình, “tựa gối buông cần”, hợp lý người đi câu muốn thu mình lại để ngập trong nhưng suy nghĩ riêng. Từ “đâu” hoàn toàn có thể hiểu là đâu đó hoặc đâu có. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì có lẽ người đi câu không còn chú tâm đến sự việc câu cá. Nhưng mặc dù cho là đâu có tiếng cá đớp động hay cái giật mình thảng thốt khi đâu đó có tiếng cá đớp động thì bài thơ cũng chứng minh với Nguyễn Khuyến đi câu chỉ là cái cớ để ông gửi gắm nỗi niềm tâm sự. chắc hẳn rằng, không riêng gì mỗi ở “Thu điếu” mà ở phía trong chùm ba bài thơ thu của mình, Nguyễn Khuyến đều gửi gắm các tâm sự riêng. Như trong “Thu vịnh”, để nói lên nỗi niềm ưu thời, mẫn thế, ông đã trăn trở rằng:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”.
Nỗi thẹn với Đào Tiềm cũng chính là nỗi thẹn của nhà thơ với dân, với nước & với chính bản thân. Gửi trong bức tranh thu là một nỗi lòng chưa một khoảng thời gian ngắn bình yên. Dù chìm vào chốn bình yên nhưng Nguyễn Khuyến vẫn trăn trở với thời cuộc, qua đó kín đáo thể hiện tâm sự yêu nước.
Về nghệ thuật và thẩm mỹ, bài thơ sử dụng thể thất ngôn bát cú đường luật với những mẹo nhỏ rất gần gũi như chấm phá, lấy động tả tĩnh. khối hệ thống từ láy giàu hình tượng, các Bức Ảnh gần cận, chân thực, sắc sảo. đặc biệt, thẩm mỹ gieo vần “eo” đã biểu hiện có tài năng bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Nhờ vậy, bức họa thu hiện lên vừa không còn xa lạ, vừa lạ, vừa chân thực, độc đáo và khác biệt. Về nội dung, bài thơ trước hết đã vẽ nên một bức họa đồ thu mang đặc thù của ngày thu nơi đồng bằng Bắc Bộ. không chỉ có thế, bài thơ đã thể hiện tâm hồn đáng quý của thi nhân: là 1 trong những con người yêu thiên nhiên, yêu non sông tha thiết.
Qua bài thơ “Câu cá mùa thu”, Nguyễn Khuyến đã góp thêm vào kho tàng thơ thu một bức họa đồ vừa thân quen, vừa khác biệt. và có lẽ, ông hoàn toàn xứng đáng với thương hiệu là “Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Sâu trong 1 tâm hồn nhạy cảm với vạn vật thiên nhiên là tấm lòng yêu nước nồng dịu, luôn lo nghĩ cho dân, cho nước.
Bài phân tích 19
Thơ vốn dĩ là sự cách điệu của tâm hồn. Trong thơ có cảnh quan mây trời, có bóng dáng của vạn vật thiên nhiên. Cũng bởi thế mà vạn vật thiên nhiên luôn là người bạn sát cánh đồng hành nâng niu các xúc cảm của thi nhân. Vòng thời gian luân chuyển bốn mùa xuân hạ thu đông. phong cảnh các mùa đều có những nét xin xắn riêng.
Nếu nói đến mùa xuân ta nghĩ đến các câu thơ.
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một số bông hoa…”
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
ngày hè tươi mát tràn trề sức sống tại thơ Nguyễn Trãi:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
(Nguyễn Trãi – Cảnh ngày hè)
Thì nhắc tới ngày thu, ta nghĩ ngay đến chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. Trong ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm, bài thơ đặc trưng nhất cho khung cảnh thiên nhiên ngày thu Bắc bộ đó là Thu điếu. Khung cảnh hiện lên với những nét đặc thù riêng lẻ của ngày thu. vẫn là những đường nét rất gần gũi nhưng trong số đó còn chứa đựng biết bao nỗi niềm của thi nhân.
Nguyễn Khuyến sinh vào năm 1835 mất năm 1909. Nguyễn Khuyến hiệu là Quế Sơn, sinh tại Nam Định nhưng lớn lên và sống đa phần ở xã Yên Đổ, huyện Lục Bình, tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong 1 mái ấm gia đình nhà nho nghèo. tên thường gọi Tam Nguyên Yên Đổ bắt đầu từ việc ông đỗ đầu cả ba kỳ thi từ thời điểm năm 1864 đến năm 1871.
Tuy đỗ đạt cao, nặng lòng với giang sơn nhưng ông chỉ làm quan 10 năm. tiếp đến, ông cáo quan về quê dạy học và sống thanh bạch. Việc ông cáo quan không tức là ông không yêu nước. Trong yếu tố hoàn cảnh xã hội loạn lạc và không muốn hợp tác với tổ chức chính quyền thực dân Pháp nên cách độc tôn ông rất có thể làm là cáo quan để giữ gìn tâm hồn thanh cao.
Nhắc về Nguyễn Khuyến người ta nhớ tới các sáng tác thơ Nôm của ông. không chỉ có châm biếm đả kích hiện trạng xã hội, ông còn viết rất nhiều về khung cảnh làng quê thanh bình…
Bài thơ Thu điếu thuộc thể loại thất ngôn bát cú Đường luật. Ở bài thơ người đọc sẽ bắt gặp khung cảnh rất gần gũi của làng quê Bắc bộ khi ngày thu đến. Bài thơ là khúc nhạc lòng của tác giả. chính là tình yêu thiên nhiên, là nỗi lòng ưu thời mẫn thế của thi nhân…
mở đầu bài thơ là khung cảnh không còn xa lạ với ao thu nước thu:
“Ao thu lạnh giá nước trong xanh
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
Điểm nhìn của thi nhân không ở khung cảnh rộng lớn bao la mà tầm mắt chỉ thu hẹp lại trong khoảng không “ao thu” tới điểm đứng “thuyền câu”. Sự thu hẹp của không gian của tầm nhìn cũng Hình như đó là sự thu mình của người sáng tác.
đi vào thơ văn ta thường bắt gặp Tấm hình thân quen của sông, của biển lớn. Nhưng Nguyễn Khuyến lại chọn một Hình ảnh đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ – ao. nghiên cứu và phân tích bài thơ Thu điếu sẽ thấy đặc điểm của ao ấy được gợi tả thông qua từ láy “lạnh lẽo”. Cái khí trời ngày thu se se lạnh ấy thấm xuyên vào vạn vật tạo ra một sự lạnh mát không những ở cảnh vật mà còn là lòng người.
Nhà thơ sử dụng từ “trong veo” vừa gợi được sắc nước, lại vừa gợi được sắc trời khi vào thu. Nước thu & trời thu thật khó tách bạch. Mặt nước hiện giờ như tấm gương soi chiếu cả trời thu vào ấy. Bức Ảnh này gợi cho ta liên tưởng đến câu thơ của Đỗ Phủ
“Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm”
(Thu hứng – Đỗ Phủ)
vẫn là trời thu nước thu và không khí lạnh buốt của ngày thu nhưng ở Nguyễn Khuyến khung cảnh có phần đơn sơ hơn bởi lẽ đó là cái mộc mạc của làng quê. Còn ở bức tranh thu của Đỗ Phủ ta cảm nhận được chút gì đó như uất hận, cay đắng.
Nếu ở câu thơ đầu Nguyễn Khuyến đã xuất hiện thêm khoảng không mùa thu thì ở câu thơ tiếp sau mùa thu ấy lại hiện ra với việc bé nhỏ đơn côi của con người. “Một chiếc thuyền câu” có lẽ rằng chính là điểm dựa của nhà thơ. Từ không gian ao đã thu hẹp lại thành “thuyền câu”. và Tấm hình chiếc thuyền càng ngày càng nhỏ bé hơn bởi sự phối hợp “bé tẻo teo”.
Ao thu đã nhỏ nhưng chiếc thuyền câu ấy đối với ao thu thì càng bé thêm hơn chỉ như một chấm nhỏ mà thôi. chính vì sự thu mình ấy khiến ta có một xúc cảm cô đơn đến rợn ngợp. không gian như thấm đẫm nỗi buồn. nghiên cứu và phân tích bài thơ Thu điếu sẽ phát hiện trong cái lanh tanh ấy người ta cần tìm một hơi ấm nhưng tại đây chẳng có ai một sự vắng ngắt đến nao lòng. Đó không chỉ cảnh thiên nhiên thông thường mà là cảnh thiên nhiên được nhìn qua đôi mắt của 1 người mang nặng tâm tư.
Khung cảnh mùa thu càng hiện lên rõ rệt hơn
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
màu xanh của nước cũng chính là màu xanh của mây trời. Sự chuyển động của sóng nước chỉ dừng lại “theo làn hơi gợn tí”. Từng con sóng nhỏ lăng tăng nối đuôi nhau. không chỉ sóng nước mà qua đó ta còn cảm nhận được sự chuyển động của gió. Từng cơn gió thoảng qua làm mặt nước xao động. Có sự vận động nhưng khoảng không không tươi đẹp rộn rã và lại càng chìm sâu vào lặng im. Trong sự lặng im ấy, ta tưởng chừng như có thể nghe thấy hơi thở của đất trời.
và Nguyễn Khuyến trong sự thanh vắng ấy đã nghe được một thanh âm rất chi là tinh tế của tiếng lá “khẽ đưa vèo”. Lá vàng vốn dĩ là một dấu hiệu nhận biết đặc thù của ngày thu “ngô đồng hóa diệp lạc thiên hạ cộng tri thu”. chính vì vậy nhắc tới mùa thu thi nhân thường luôn viết về lá vàng. không chỉ có trong trung đại mà còn cả trong văn học tân tiến
“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi vàng rơi thu mênh mông…”
(Bích Khê)
Thi sĩ Xuân Diệu cũng từng ngỡ ngàng thơ mộng:
“Đây mùa thu tới ngày thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
(Xuân Diệu)
và khi nghiên cứu bài thơ Thu điếu sẽ thấy Nguyễn Khuyến cũng thế. tuy nhiên lá vàng mà ông khắc họa lại ẩn chứa cả một nỗi niềm. “Đưa vèo” chính là một hoạt động nhanh & đầy dứt khoát. Từ “vèo” không những gợi được sự vận động mà còn gợi được dáng vẻ của vật thể chuyển động – mỏng mảnh, dẹt, nhẹ. Âm thanh ấy gợi được cái sự yên tĩnh hoàn hảo.
mặc dù vậy, để rất có thể lắng nghe được âm thanh ấy hẳn Nguyễn Khuyến phải là một người tinh tế. sau đây, Trần Đăng Khoa cũng từng nghe được âm thanh của chiếc lá rơi “Tiếng rơi rất khẽ/ như thể rơi nghiêng”. Nhưng không dựng chân lại tại đó, chiếc lá “đưa vèo” còn gợi ra sự đổi khác của thời thế cục diện đất nước. toàn bộ diễn ra quá nhanh.
và trước sự chảy trôi, sự chuyển đổi ấy, ông chỉ có thể ngậm ngùi bất lực mà đồng ý. Từ cái nhìn bao quát chuyển qua cái nhìn cận cảnh. ở cả hai câu thực đó, Nguyễn Khuyến chuyển hẳn qua nhìn điểm, cụ thể chi tiết. ở hai câu thực là một bức họa đồ thu với sắc xanh hợp lý cùng sắc vàng. màu xanh của sóng nước là phông nền để khá nổi bật cho màu vàng của lá thu. Gió đưa, sóng gợn, lá bay các vận động ấy Dường như cũng khẽ hơn để không phá vỡ sự yên tĩnh của vạn vật thiên nhiên.
không gian từ rộng đến hẹp, tầm nhìn cũng đổi khác từ khái quát đến cận cảnh và lúc bấy giờ tầm nhìn ấy hướng thăng thiên xanh
“Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Cái vắng lạnh của mùa thu đã lan lan tỏa đất trời. Từ láy “lơ lửng” đã miêu tả chiến thắng cái trạng thái nửa như muốn trôi nửa như còn đang luyến tiếc điều nào đó của các đám mây. điều này khiến ta có cảm tưởng đám mây giống như đang đứng yên. “Trời xanh ngắt” cũng sẽ là một Tấm hình đặc trưng của ngày thu. blue color có vẻ đã đạt đến cực độ. Sự phối kết hợp ấy đã khiến cho khung trời như cao hơn rộng hơn. không gian cũng chính vì như thế mà được lan rộng ra ra đến vô cùng.
Từ cái nhìn hướng lên trên, thi nhân nhanh chóng chuyển xuống mặt đất để thấy “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Đường làng Bắc Bộ với các bụi tre bụi trúc nối tiếp nhau hiện lên. Khi nghiên cứu bài thơ Thu điếu sẽ thấy con người được nói đến thông qua Hình ảnh “khách vắng teo”. không gian chìm vào sự im vắng. Chờ người nhưng người nào đến. Nguyễn Khuyến đang chờ đợi điều gì chăng?
Đến hai câu kết nhân vật trữ tình mới hiện ra rõ nét
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Tư thế của nhân vật trữ tình là tư thế dáng vóc của 1 ông câu “tựa gối buông cần”. Tấm hình một ông già ngồi câu cá gợi ra một sự thanh cao, thoát tục, thảnh thơi. tuy vậy sự nhàn nhã ấy chợt bị khuấy động. Mọi thứ ra mắt “lâu chẳng được”, chỉ trong một thời gian ngắn. Tấm lòng ấy Dường như chỉ yên tĩnh trong vài phút ngắn ngủi. thời gian này tương xứng với cái “khẽ đưa vèo” của lá vàng ở câu thơ trên.
Dường như thoáng một chút hờn dỗi bởi sự yên tĩnh bị cắt ngang. Nguyên Nhân dẫn tới việc xao động ấy chính âm thanh “đớp động”. “Đâu” hoàn toàn có thể được hiểu là từ phủ định cũng đều có thể là đại từ phiếm chỉ. Trong dòng thơ này, ta nên hiểu “đâu” là đại từ phiếm chỉ. Tiếng cá vang lên từ nơi nào không xác định được. Một thanh âm mơ hồ từ nơi xa vắng nào vang lên lại khuấy động cả một mặt hồ yên bình & khuấy động tâm hồn thi nhân.
phân tích bài thơ Thu điếu thì hoàn toàn có thể thấy, ý của bài thơ là nói về việc đi câu nhưng Hình như đi câu đối với Nguyễn Khuyến chỉ là cái cớ. một chiếc cớ để ông thu vào thời gian mắt cảnh thiên nhiên đất trời vào thu. một cái cớ để ông có các khoảng thời gian ngắn tĩnh tại tâm lý về thời cuộc. chính là lí do mà đi câu nhưng con tim của ông không dành cho việc câu cá. Dùng Bức Ảnh ông câu nhưng trong bài Thu điếu con người lại hiện ra đầy tâm sự không phải như Tấm hình ông câu trong bài Ngư nhàn của Không Lộ thiền sư
“Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền.”
(Ngư nhàn – Không Lộ thiền sư)
dù cho có vẻ nhàn rỗi nhưng thực ra con tim ông không yên tĩnh thanh “nhàn” như Nguyễn Bỉnh Khiêm, mà ông luôn hướng tới nước nhà về nhân dân như Phố Nguyễn Trãi – nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Nên một âm thanh nhỏ của ngoại cảnh cũng ảnh hưởng trẻ khỏe đến Nguyễn Khuyến như thế.
nghiên cứu và phân tích bài thơ Thu điếu sẽ phát hiện từ cái nhìn hướng ngoại, chủ thể trữ tình đã hướng về trong nhìn vào tâm tư tình cảm của mình để rồi mọi thứ vỡ òa ra trong một khoảnh khắc. hai câu kết người sáng tác lại một đợt tiếp nhữa sử dụng chiến thắng nghệ thuật và thẩm mỹ lấy động tả tĩnh. Lấy cái động của sự việc vật để diễn tả cái tĩnh của khoảng không đồng thời cũng thấy được cái động của con tim. Xa lánh chốn lao xao quyền quý nhưng vẫn nặng lòng với giang sơn.
Bài nghiên cứu và phân tích 20
ngày thu – một vẻ đẹp dịu dàng, êm ả dịu dàng làm thanh mát tâm hồn con người, khắc khoải một nỗi niềm tha thiết. Cảnh thu bước vào trang thơ của người nghệ sĩ vừa mang đậm màu cảnh, vừa đẹp tình. Trong kho báu văn thơ việt nam, khi nói tới mùa thu, ta không còn không nói đến chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã có những lời xét về chùm thơ thu của tác giả: ”Nguyễn Khuyến khét tiếng trong văn học là thơ Nôm. Nức danh nhất là chùm thơ thu. Thu điếu điển hình nổi bật hơn hết cho mùa thu của làng cảnh VN.
Một tâm hồn thơ đầy nhạy cảm và cũng thật tinh tế, một bầu không gian nói mấy cũng không vơi, nhìn vào đâu cũng thấy thơ, cũng có thể có thể bắt vào thơ như Nguyễn Khuyến. Chỉ bằng một trong những đường nét, người đọc như thấu hiểu được cái tình của thi nhân, sự gắn bó hợp lý với cảnh quan quê hương:
“Ao thu giá lạnh nước trong xanh,
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.
Điểm nhìn được đón nhận từ gần đến cao xa, từ cao xa trở lại gần. Từ điểm nhìn ấy như xuất hiện thêm nhiều hướng mô tả & cảm nhận mùa thu không giống nhau. Từ láy ”lạnh lẽo” đặc tả khí lạnh của nước mùa thu, cái lạnh có vẻ như thấm vào da thịt con người. Nước thu thì trong xanh, thi nhân dùng tính từ để biểu lộ độ trong của nước, hoàn hảo và tuyệt vời nhất hóa sự trong sáng & yên bình của mặt nước ao. Cách gieo vần ”eo” đầy lạ mắt và ấn tượng, khoảng không thật eo hẹp và chật. giữa trung tâm của bức họa đồ thu ấy đó là chiếc thuyền câu ”bé tẻo teo”. Từ chính chiếc thuyền ấy mà góc nhìn của thi nhân bao quát ra xung quanh và cảm nhận mặt nước ao thu giá lạnh & xanh ngắt đến hết độ. Rồi ngày thu liên tục hiện lên:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”.
Sóng biếc thì gợn tí, xa hơn là Bức Ảnh lá vàng ”khẽ đưa vèo” trong gió, cao hơn là không gian gian với khung trời trong veo. Một bức tranh có sự hài hòa với màu sắc thanh trang, dân dã mang đậm hồn quê. Nguyễn Khuyến đã mở lòng để đón nhận cái thần thái rất cá tính của ngày thu như vậy. Với bút pháp ”vẽ mây nảy trăng”, tả sóng nước gợn tí, lá vàng khẽ đưa vèo đó là nhà thơ đang họa nên gió. Âm thanh ấy không để cho cảnh thu thêm náo nhiệt, tấp nập mà để cho bức họa có thể trở nên u buồn, có nét thanh sơ hơn.
không gian bức tranh thu với điểm tô màu ”xanh ngắt” như sợi chỉ xuyên suốt, liên kết chùm thơ thu ba bài của thi nhân, bởi vậy đã biến thành gam màu đặc thù cho hồn thơ thu của Nguyễn Khuyến:
“Trời thu trong xanh mấy tầng phía trên cao
(Thu vịnh)
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”.
(Thu ẩm)
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.
(Thu điếu)
Tấm hình tầng mây ”lơ lửng” gợi ra Hình ảnh làn gió thu nhẹ dịu thổi khẽ làm mây không mờ mà chỉ lơ lửng, lạnh lùng trên bầu trời xanh kia. Trời trong xanh là khoảng tầm trời xanh đậm không một gợn mây, vừa gợi ra độ sâu rộng của không gian, cũng chính là cái nhìn vời vợi & tâm trạng nhiều uẩn ức, tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân. Với hình ảnh:
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.
không có một bóng người qua lại gợi nên một không gian thu yên tĩnh đến dịu dàng êm ả. Câu thơ cuối đã được người sáng tác khôn khéo lồng vào bút pháp cổ xưa ”lấy động tả tĩnh”:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Chính tại đây Hình ảnh con người liên đới có mặt, với tâm thế thảnh thơi, ra khỏi vòng danh lợi, tư thế thu mình để lánh đời. Hình ảnh thi nhân trong vai một ngư ông đối lập với vạn vật thiên nhiên mà như đang trầm ngâm, suy tư. cũng cần phải là một không gian tĩnh lặng tuyệt đối thì mới nghe thấy tiếng cá đớp động như vậy. Từ ”đâu” có hai cách hiểu. theo cách hiểu trước tiên là sự việc phủ định hoàn toàn sự xuất hiện của con người, cũng không có âm thanh của tiếng cá, đó là sự chờ đợi trong vô vọng tới mức ôm cần tựa gối như bất động. Theo phong cách hiểu thứ 2 là ”đâu đó” có âm thanh nhưng mơ hồ & xa vắng. Dù cách hiểu ra sao thì đi câu cũng chỉ là cái cớ để thi nhân biểu thị nỗi u hoài trong tim người câu cá. Một luôn hồn luôn mở rộng để cảm nhận cảnh thu, tình thu, yêu nước thầm kín mà không thua kém thâm thúy. Ta cũng nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du:
bức họa đồ thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy, cũng mang nặng những nỗi niềm tâm sự, nỗi u hoài trước thời cuộc đổi thay. Cái se lạnh của mùa thu có vẻ như đã ngấm vào con tim của nhà thơ hay cái lạnh của lòng thi nhân đang lan tỏa ra cảnh vật vậy? mặc dầu ở chốn thôn quê thanh sơ, Nguyễn Khuyến vẫn luôn đau đáu một nỗi quan hoài trực thuộc, bởi ông là 1 trong người nặng lòng với quê nhà, với quốc gia.
mọi người nghệ sĩ khi viết văn, làm thơ là để thỏa mãn nhu cầu nối tiền mình với nhân loại & sự vật xung quanh, để tâm hồn mình hòa nhịp với con tim của mọi cá nhân. Như đọc một câu thơ hay là ” gặp gỡ một tâm hồn con người”. Chính nỗi u hoài của tác giả đã truyền một nguồn lực mãnh liệt trong tâm hồn mỗi cá nhân đọc, cũng làm nên giá trị cho tuyệt bút muôn đời, tạo cho sức sống lâu bền cho sản phẩm thực tế trong dòng thời gian của nền văn học nước ta.
Bài nghiên cứu và phân tích 21
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nổi tiếng, thanh cao và giàu lòng yêu nước của việt nam, ông được mệnh danh là 1 trong những “ nhà thơ của nhân dân, của xóm làng Việt Nam”. Thơ của Nguyễn Khuyến mang đậm hồn quê Việt. Ông để lại cho đời chùm thơ ca về ngày thu rất đặc sắc, đượm tình quê dạt dào bao gồm Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. trong các số ấy, điển hình nổi bật hoàn toàn có thể kể tới bài thơ “ Câu cá mùa thu” hay còn gọi là “ Thu điếu”, bài thơ điển hình cho ngày thu làng cảnh tại việt nam. “ Câu cá mùa thu” là bức họa thiên nhiên ngày thu tại làng quê của Nguyễn Khuyến, cũng chính là Bức Ảnh điển hình nổi bật cho làng quê Việt. Bài thơ bật lên sự yên tĩnh, trong trẻo nhẹ dịu của bức họa quê.
Thơ ngày thu thường mang đến cho tất cả chúng ta cảm hứng về một chiếc buồn man mác hay sự đơn độc lặng thinh của tất cả con người lẫn cảnh vật. trong các số ấy đan xen là những hoài niệm, nuối tiếc về một điều nào đấy xa xôi của chủ thể trong bài. Mùa chiếm hữu được Nguyễn Khuyến vẽ lên trong “ Câu cá mùa thu” là mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ, quê nhà yêu mến của ông. “ Câu cá ngày thu là bài thơ viết theo thể thơ cổ Thất ngôn bát cú Đường luật”, Nguyễn Khuyến thổi hương sắc ngày thu đẹp đến lạ kỳ của làng quê Việt vào từng dòng thơ, câu cú thướt tha.
Hai câu đầu bài thơ mô tả về khoảng không cảnh thu trong trẻo, được Nguyễn Khuyến chọn để tập trung mô tả, chính là chiếc ao thu cùng chiếc thuyền câu. mùa thu ở “ Câu cá mùa thu” biệt lập đối với cảnh trời thu mênh mông bát ngát, khoảng không được diễn tả trên nhiều tầng phía trên cao như “ Thu vịnh”. Bài thơ không tả cảnh thiên nhiên trong không gian vạn vật thiên nhiên trải rộng mà cảnh vật mùa chiếm hữu được diễn tả gói gọn trong chiếc ao thu, các cái ao chuôm nhỏ thường hay xuất hiện không ít ở vùng quê Nguyễn Khuyến:
“ Ao thu lanh tanh nước trong veo
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Ao thu miền quê Bắc Bộ được diễn tả bằng các từ “ trong xanh, lạnh lẽo”, làn nước thu trong trẻo tưởng chừng như rất có thể nhìn sâu tới từng ngọn rêu, từng hòn sỏi. Ôi, một mùa thu im lặng, phẳng lặng, nước ở ao âm thầm lặng lẽ giữa trời thu, không chút gợn, tỏa hơi “ lạnh lẽo”. Chắc chắc hẳn rằng tiết trời đã gợn chút cảm hứng se lạnh thời điểm thu phân, thu mạt nên cái lạnh mới có thể thấm đẫm cả vào vạn vật thiên nhiên. tác giả chọn một khoảng không nhỏ là “ ao thu” chứ không hẳn không gian rộng lớn như “ hồ thu”. Dưới các làn khói tiết trời thu bao phủ cảnh vật, nước trong ao đã trong, nay lại càng trong hơn, bật lên sự dịu nhẹ mà thanh thoát của mùa thu. phía trên mặt nước là chiếc thuyền câu thấp thoáng xa xa. một cái thuyền bé tẻo teo, đậu cô đơn 1 mình giữa ao. Giữa một khoảng không nhỏ hẹp của chiếc ao làng, chiếc thuyền bé nhỏ hiện lên nhưng không còn bị lu mờ, lọt thỏm trong cảnh vật và lại làm cho một sự phối kết hợp hài hòa và hợp lý, phù hợp, quyện vào nhau đến lạ. Hình ảnh ao thu và chiếc thuyền câu là hai Bức Ảnh vốn rất đỗi không còn xa lạ, trở thành điểm nóng của bài thơ. Nguyễn Khuyến đã thể hiện sự rung cảm của mình trước sắc đẹp thanh tịnh cá biệt, trước khoảng không thiên nhiên trong tiết thu se lạnh. bằng phương pháp sử dụng các tính từ miêu tả “ lạnh lẽo”, “ trong veo”, “ bé tẻo teo” đã góp phần làm cho bài thơ tăng điểm khác biệt về từng đường nét thanh mảnh, thanh thoát, nhẹ dịu trong sắc nước trời thu. tiếp đây, không gian mùa thu hiện lên thật êm ả. Đầu bài thơ với hai Bức Ảnh này, hồn thu Việt như ùa về trong tâm địa trí, âm vang mùa thu như vọng trong trái tim người đọc.
Hai câu luận
bức họa mùa thu quê Việt được Nguyễn Khuyến liên tục vẽ lên với màu sắc hòa hợp trong hai câu thơ tiếp:
“ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
bức tranh tiếp sau liên tiếp hiện lên qua sắc “ biếc” của sóng hòa cùng sắc “ vàng” của lá thu đã lột tả vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc của mùa thu của làng quê. “ Sóng biếc” là từ gợi Hình ảnh về sắc nước trong xanh trong tiết thu, chính là sắc xanh nhẹ nhàng, thanh thoát. Bức Ảnh “ lá vàng” là Tấm hình rất quen thuộc trong đợt thu, được mô tả nhiều trong thơ ca Việt. tác giả đã rất khéo léo trong những công việc hết hợp đối từ trong hai câu thực của bài thơ, “ lá vàng- sóng biếc” và “ gợn tí- khẽ đưa vèo”, chuyển động thật êm ái, nhẹ nhàng của cảnh vật. không gian mùa thu tĩnh đến mức tác giả cảm nhận được những sự hoạt động mặc dù cho là thấp nhất của cảnh vật, sóng “ gợn tí”, “ lá khẽ đưa”. Với nghệ thuật và thẩm mỹ lấy động để tả tĩnh, tác giả đã bật lên thành công về một mùa thu quê Việt với sự tĩnh lặng gần như tuyệt vời nhất của cảnh vật vạn vật thiên nhiên, nhưng lại rất mộc mạc, đơn sơ. Không khổ danh là 1 trong nhà thơ của làng quê nước ta, Nguyễn Khuyến có thể cảm nhận tinh tế và sắc sảo, trọn vẹn từng cụ thể của cảnh vật, mặc dù cho là các vận động nhỏ nhất.
Hai câu luận tiếp sau
Đến với hai câu luận tiếp theo, hồn quê bình dân của VN xuất hiện với Tấm hình tầng mây, ngõ trúc quen thuộc, không gian như được mở rộng ra bao quanh hơn :
“ Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Khung cảnh của bức họa đồ thôn quê đã được lan rộng ra từ độ cao của tầng mây thăm thẳm rồi quay trở xuống với cảnh những con ngõ bình dị của xóm làng. người sáng tác phóng tầm mắt của chính mình lên chầu trời cao xanh thẳm, cái trời thu trong xanh với các áng mây lững lờ trôi. Màu trong veo của trời thu mở ra chiều sâu, cái lắng đọng của không gian cao vun vút, bao la vời vợi. Thế rồi, cảnh vật được chuyển một cách nhẹ nhàng về làng quê. Hồn quê được biểu đạt rõ rệt qua Bức Ảnh những con ngõ nhỏ quanh co, các rặng tre, rặng trúc đầu làng. Cảnh vật con ngõ nhỏ im re, lạng lẽ, hun hút không một tiếng động, tiếng bước chân của con người. Từ “ vắng teo” càng ngày càng tăng vẻ im re nơi đây, không một âm thanh tiếng động nào dù cho là bé nhất, mọi thứ êm đềm, trống vắng. tiếp đây, cái êm đềm của cảnh vật này lại gợi lên một cảm xúc đôi chút đơn độc, lạnh mát & hiu hắt. Chỉ có người câu cá ngồi đây, chìm giữa trời thu, cảnh vật thu, và chìm ngập trong sự tĩnh lặng. Thi sĩ lúc này đang âm thầm cảm nhận sắc đẹp của non nước quê nhà & mơ màng chìm đắm vào sâu trong cảnh vật bao quanh.
Nguyễn Khuyến đã khép lại bài thơ với hai câu thơ rất lôi cuốn & ý nghĩa, mở ra Bức Ảnh con người ngồi câu trong tiết thu se lạnh, trong khoảng không yên tĩnh, hiu quạnh:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Đọc tựa đề bài thơ, người đọc gần như là người nào cũng sẽ đoán là bài sẽ tả về cảnh câu cá trong đợt thu. dẫu thế, qua những cặp câu đề, thực, luận cũng chỉ thấy xuất hiện cảnh thiên nhiên. Nào là ao thu trong veo im lặng, nào chiếc thuyền câu bé bỏng, nào là các đẩy sóng biếc, các cái lá vàng, tầng mây tới ngõ trúc uốn lượn mà không có thấy gì Hình ảnh người câu cá. thì cho tới hai câu kết, con người, lẽ ra trở thành tâm điểm bài thơ Ngay từ đầu cũng đã có mặt, một Bức Ảnh con người lặng lẽ âm thầm ngồi câu cá. trước đó, Nguyễn Khuyến từng làm quan to trong triều nhà Nguyễn, mặc dù thế dù rất thương dân chúng nhưng ông cảm thấy tù túng, bất lực trước thời cuộc, không cam chịu làm ách đầy tớ, tay sai cho bọn giặc Pháp xâm lược. vì thế ông đã từ quan về quê sống ẩn dật. Nhà thơ Nguyễn Khuyến hiện nay đã ra khỏi vòng quay của danh lợi, ra khỏi những điều phi lý của cơ chế triều đình, ông về lại nhà sống thư thả, tự tại sống một cuộc sống đời thường yên bình đơn giản và giản dị với làng quê. “ Tựa gối ôm cần” miêu tả tư thế thông thả, thảnh thơi của người câu cá. người sáng tác dùng từ “ ôm cần” chờ đón cá cắn câu mà mãi chẳng thấy trong cái im re của không gian chứ không phải “ buông cần” cho biết trước khoảng không hiu quanh đó, người câu vẫn chưa từ bỏ hay là đang cố lờ đi mọi vật, vẫn có đôi chút luyến lưu, hụt hẫng về một điều gì đấy. phải chăng đó chính là sự gửi gắm các tâm lý, trăn trở, tiếc nuối của nhà thơ về thời cuộc hiện nay, về cơ quan ban ngành nhu nhược, khiến dân chúng lầm than. Đây đồng thời cũng ám chỉ cho tâm thế nhẹ nhàng, an yên của nhà thơ bây giờ, một nhà thơ thanh bạch, giải thoát mình khỏi sự tù túng, sự bất lực trước thời cuộc. Đang nhẹ nhàng đắm mình tận thưởng sắc khí trời thu, trong giấc mộng thu mơ màng, người câu cá bỗng bất ngờ khe khẽ bởi “ Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Tiếng động của cá cắn mồi như phá vỡ đi sự im lặng của thiên nhiên vạn vật hiện nay. đấy là tiếng động duy nhất được Nguyễn Khuyến miêu tả trong bài thơ. Tuy là vậy, tuy nhiên, từ “ khẽ” vẫn làm cho cảnh vật mùa thu tại làng quê hiện lên với việc yên ắng nhưng lại nhẹ nhàng, thanh bình. Người câu cá hiện lên với Tấm hình một con người đã và đang trong tâm trạng đơn độc, âm thầm lặng lẽ, pha đôi chút man mác buồn, nuối tiếc nào đó, bên cạnh vậy là một trong những con tim thanh bạch, nhẹ dịu.
Bài thơ mang đậm sang trọng quê hương vùng đồng bằng Bắc Bộ qua cảm nhận sâu sắc, sắc sảo của tác giả Nguyễn Khuyến. thẩm mỹ lấy động tả tĩnh gợi sự tĩnh mịch tuyệt vời và hoàn hảo nhất của cảnh vật kết phù hợp với những phép đối câu, gieo vần “ eo”, người sáng tác giúp bài thơ thổi ra hương sắc thu nổi bật.Cách sử dụng khôn khéo những tính từ, cặp vần có đặc thù ngân vang trong trẻo như lấn sân vào tâm hồn fan hâm mộ. tác giả đã có các để ý tinh tế và sắc sảo khi chọn biểu đạt những phong cảnh rất đỗi bình dân với làng quê, từ cái ao quê tới chiếc thuyền, từ trời xanh tới những con ngõ uốn lượn, ẩn mình dưới bóng tre, bảo phủ xóm làng. bên cạnh khoảng không nhỏ hẹp, yên tĩnh chính là tâm trạng chứa bao nỗi uẩn khúc của tác giả với thời cuộc giờ đây.
“Câu cá mùa thu” là bài thơ rực rỡ về tả cảnh ngụ tình, là con tim, cảm nhận của tác giả Nguyễn Khuyến về bức tranh trời thu của đồng bằng Bắc Bộ. Một bức tranh thu ở làng quê nhỏ yên tĩnh tới lạ kỳ, êm đềm, dịu dàng êm ả & yên bình được cảm nhận cụ thể chi tiết tới từng cảnh vật thấp nhất qua tài giỏi và các rung cảm đặc biệt mà tác giả dành cho quê nhà mình, cho làng quê VN sau lũy tre. Hẳn phải có một tình yêu quê nhà sâu sắc, hồn quê đậm đà mới hoàn toàn có thể giúp Nguyễn Khuyến cảm nhận được bức họa đẹp này. Nguyễn Khuyến xứng danh được ca tụng là 1 trong nhà thơ kiệt xuất gắn kèm với quê hương trong nền thơ ca cổ của dân tộc VN.
Bài nghiên cứu 22
“Thu là thơ của đất trời, thơ là thu của lòng người”. ngày thu với những chiếc lá vàng, tiết heo may lành lạnh luôn là niềm cảm giác bất tận cho tâm hồn thi sĩ. Thu gợi lên những xúc cảm xốn xang & nỗi buồn sắc sảo, khiến người ta bất giác nhớ về một thời vang bóng. Lẽ tự nhiên và thoải mái, khi “ngô nhất quán diệp lạc”, những vần thơ nói đến tình thu, cảnh thu luôn khiến ta chìm vào dòng xúc cảm miên man của nỗi buồn thi sĩ. và đến với Nguyễn Khuyến, người đọc có thời cơ được chiêm ngưỡng và ngắm nhìn một dáng hình mùa thu rất độc đáo qua “Thu điếu”.
“Ao thu lạnh lẽo nước xanh ngắt,
một cái thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
ở hai câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến không chọn cảnh núi non hùng vĩ hay sông hồ khoáng đạt vào thời gian sang thu mà chọn các Hình ảnh rất quen thuộc với nơi ông sinh ra & lớn lên: vùng đồng bằng Bắc Bộ:
“Ao thu lanh tanh nước trong xanh
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
Cái hồn của ngày thu hiện lên thật trong trắng, thuần khiết qua Tấm hình “ao thu lạnh lẽo” & “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. những Bức Ảnh ấy gợi lên trong trái tim người đọc một cảm hứng phẳng lặng khó tả, tưởng như đã tìm lại được cái hồn của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ. Từ “một chiếc” đến “tẻo teo”, các từ ngữ được Nguyễn Khuyến sử dụng theo Lever tăng tiến khiến những sự vật vốn đã bé mọn nay lại càng trở nhỏ bé thêm hơn.
bức họa đồ ngày thu liên tục được Tam Nguyên Yên Đổ gợi lên bằng những nét vẽ tinh tế:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ bay vèo”
những quan sát tinh tế cùng với sự yên bình trong tâm địa hồn đã hỗ trợ nhà thơ cảm nhận được các đường nét, vận động rất độc đáo của mùa thu: sóng gợn lăn tăn phía trên mặt ao, lá vàng rơi trong gió. Chữ “vèo” trở thành nhãn tự của bài thơ mà Tản Đà từng 1 thời thán phục: “Chỉ 1 chữ “vèo” cũng đủ suy tôn cụ là bậc thầy về tài luyện chữ rồi”. nghệ thuật lấy động tả tĩnh thường nhìn thấy trong văn thơ trung đại cũng làm trông rất nổi bật lên sự tĩnh lặng, thanh vắng của không gian mùa thu.
nhắc tới ngày thu, ngoài lá vàng rơi trong gió, làm thế nào hoàn toàn có thể bỏ qua sắc xanh xao đặc trưng của bầu trời:
“Từng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
ở phía trong “Thu vịnh”, bầu trời mùa thu được Nguyễn Khuyến dùng đôi mắt hướng thượng để tìm hiểu xuyên thẳng qua các tầng mây: “Trời thu trong veo mấy tầng cao”. màu sắc trời thu trong thơ Nguyễn Khuyến luôn luôn được nhận diện là “xanh ngắt”. “Xanh ngắt” lộ diện cái bát ngát của khung trời, đồng thời giúp người đọc cảm nhận được cái nhìn vời vợi của ông lão đánh cá khi chiêm ngưỡng và ngắm nhìn các áng mây đang lững lờ trôi. xuất hiện một khoảng không khoáng đạt, các sự vật được thâu vào cặp mắt của nhà thơ không phải là “thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” mà lại là những Hình ảnh rất là thân mật mà làng quê Bắc Bộ nào cũng có: Hình ảnh tre trúc, ngõ xóm quanh co không một bóng người qua lại.
Cả bài thơ tưởng chừng như là một trong những bức họa đồ thu đậm chất truyền thống thì tới hai câu thơ cuối, Bức Ảnh nhân vật trữ tình hiện lên trong 1 trạng thái thật bất ngờ đột ngột & ý vị:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
“Tựa gối ôm cần” là tư thế trầm ngâm suy tư, đồng thời cũng thể hiện tâm thế nhàn nhã của bậc tao nhân mặc khách đã thoát ra khỏi vòng danh lợi. Nhà thơ Hình như đang chìm vào trong nhân loại của riêng mình, của các suy tư, trăn trở, bởi thế cho nên một tiếng động rất nhỏ như tiếng cá đớp động dưới chân bèo cũng đủ để khiến người đi câu tỉnh thức và trở về thực tại. Đằng sau câu chữ, ta còn phân biệt sự cô đơn cùng nỗi buồn về nhân tình thế thái đang đè nén lên con tim nhà thơ- một ông quan nhà Nguyễn quyết giữ sự thanh liêm, trong sạch.
Khi nhận xét về bải thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn cả, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình nổi bật hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Sự giản dị trong Bức Ảnh và nét rất dị trong ngôn ngữ của “Thu điếu” hợp lí đó là chất men để cho lòng người nguyện mê hồn, chìm đắm?
Bài nghiên cứu và phân tích 23
Thu vốn là đề tài rất gần gũi trong kho tàng thơ ca VN. nếu mà trong văn học văn minh, ta rất có thể phát hiện “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu hay “Thơ tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh thì khi quay lại thời kì trung đại, “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến như 1 nét mực hoàn thiện bức tranh mùa thu rực rỡ tỏa nắng nhưng man mác một nỗi buồn.
Tam nguyên yên đỗ Nguyễn Khuyến sinh vào năm 1835, là 1 nhà thơ khét tiếng trong nền văn học việt nam. Thơ văn của ông vừa mang sắc tố trào phúng, lại có bài nhuốm đậm vẻ đẹp trữ tình. dù cho là bằng gam màu nào thì thơ văn của ông vẫn hiện hữu lên một nét rất đặc biệt, làm mê đắm biết bao thế hệ yêu nghệ thuật và thẩm mỹ.
“Thu điếu” hay “Câu cá mùa thu” là bài thơ Nôm khét tiếng, thuộc chùm thơ thu gồm ba bài của Nguyễn Khuyến là “Thu điếu”, “Thu ẩm” & “Thu vịnh”. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên một bức họa mùa thu trong & tĩnh, thân cận với Bức Ảnh ngày thu thường thấy ở lảng quê Bắc Bộ:
“Ao thu lạnh buốt nước trong xanh
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Hai câu thơ, mười bốn từ nhưng những từ chứa vần “eo” đã sở hữu một số lượng đáng chú ý, khi đọc lên ta có xúc cảm khoảng không như co cụm lại, luồng khí thì lạnh mát và yên tĩnh đến lạ đời. ngày thu đã đi vào qua những dấu hiệu của cảnh vật. Nước trong ao giá lạnh, mặt nước thì yên bình và trong veo đến cả có thể thấy mặt dưới ao có những gì. những tưởng trong khoảng không im re, lạng lẽ đến cả u ám và đen tối, ảm đạm thì một Bức Ảnh mới xuất hiện, xua tan đi vẻ hoang sơ tĩnh lặng: một chiếc thuyền câu nhỏ nhắn giữa mặt nước xanh ngắt. Chiếc thuyền “tẻo teo” ấy trông thật đẹp tươi, tuy nhỏ xíu nhưng nó hỗ trợ cho không gian nơi đây góp phần ấm cúng hơn, bởi trên chiếc thuyền, ắt hẳn có bóng hình con người xuất hiện…
ngoài ra, bức họa thu còn được người sáng tác lan rộng hơn về chiều kích không gian:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.”
khoảng không tuy lan rộng với rất nhiều cảnh vật hơn nhưng sự yên bình của ngày thu vẫn không thể xoay chuyển. Mặt nước vẫn yên tĩnh đến lạ, chỉ có chút “gợn tí” bởi một cơn gió đầu thu. Cuốn mình theo cơn gió se se lạnh ấy là một chiếc “lá vàng…khẽ đưa vèo”. nghệ thuật đối lập được sử dụng triệt để trong câu thơ này, giữa cái “khẽ” giữa chiếc lá rơi nhẹ dịu với từ “vèo” đặc tả cho tốc độ rơi nhanh, một cái lá rơi rụng chẳng thể nào xua tan đi cái sự im re vốn có của mùa thu nơi đây.
các cảnh vật dưới mặt đất đã được đặc tả, người sáng tác liên tục hướng cái nhìn của chính mình lên khung trời to lớn phía trên, mở ra một khoảng không thoáng đãng:
“Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.”
khung trời trong xanh là 1 trong vẻ đẹp không hề nhầm lẫn của mùa thu. Trên khoảng không cao nhòng xanh trong ấy là những “tầng mây lơ lửng” tạo cảm hứng bềnh bồng, nhẹ dịu, có chút gì đó đơn độc, hiu quạnh khi trong khoảng không rộng lớn như thế mà chỉ có 1 phần mây một mình giữa trời. chiều cao đã được lan rộng, không gian đã trở nên quang đãng, Nguyễn Khuyến lại xoay tầm mắt quay trở về mặt đất không còn xa lạ. “Ngõ trúc quanh co” cũng “vắng teo” người qua lại. không gian quả thật là yên mịch quá đỗi…
Thế rồi, trong cái không khí se se lạnh bởi ngày thu ấy, Tấm hình con người sau cùng cũng đã xuất hiện:
“Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Hai câu thơ cuối cùng đó đã góp thêm phần biểu hiện chân dung của tác giả. giữa những ngày cáo quan về ở ẩn, nhà thơ đã chọn cho bản thân một cái cần câu mà tạm quên đi việc dân, việc nước. tuy nhiên ông không thể nào chú tâm vào vấn đề đi câu mà chỉ chú ý tới cảnh vật bao quanh, có lẽ trong lòng ông, ông chỉ mong có 1 không gian yên tĩnh để tâm lý về việc đời. Người câu cá giống như là đang hòa làm một với thiên nhiên, như đang đơn độc, lạc lõng giữa dòng đời xô bồ, nhộn nhịp.
mùa thu qua “Câu cá mùa thu” dù rất yên bình, hiu hắt và có phần ảm đạm nhưng đâu này vẫn mang những vẻ đẹp đặc trưng, tỏa nắng rực rỡ đến lạ lùng. thông qua đó ta hoàn toàn có thể thấy được tình yêu của nguyễn Khuyến so với cảnh thu và một lòng nồng thắm hướng tới nước nhà chẳng thể nào bị xóa mờ.
Bài phân tích 24
kể đến mùa thu, chúng ta sẽ nghĩ đến khung cảnh nhẹ dịu & mơ mộng với sắc tố vàng vọt của trời, của các lá đang rụng rơi khắp phố Phường. Cũng vì chút nhẹ dịu ấy mà ngày thu thường gợi lên cảm hứng buồn man mác trong tim người. Bài thơ “Câu cá mùa thu” của nhà thơ Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức tranh thu êm ả dịu dàng xen lẫn những xúc cảm chân thành của người thi sĩ.
khởi đầu thơ là khung cảnh nhẹ nhàng vốn có chốn làng quê thanh bình.
Ao thu lạnh ngắt nước trong xanh
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
xuất hiện thêm trước mắt bạn đọc là mặt nước bát ngát, xanh thẳm trải dài ra vô tận. Bức Ảnh ao thu là một trong những thứ gì đấy quá đỗi thân quen so với cư dân Bắc Bộ. Ao nhỏ nhiều hơn hồ, nhưng ở đây mặt ao lại như rộng hơn, bao la hơn trước sự yên tĩnh của đất trời. Trong cái rộng lớn ấy, khá nổi bật lên là hình chiếc thuyền câu “bé tẻo teo”. Chiếc thuyền bỗng biến thành trọng tâm của bức vẽ và trở thành linh hồn của tất cả bài thơ. Người thi nhân ngồi trên chiếc thuyền ấy, đẩy tầm mắt ra xa để quan sát & tận thưởng toàn diện tiết trời & cảnh quan ngày thu. chắc rằng giờ đây đã vào thời gian cuối thu nên người sáng tác mới cảm nhận được cái se lạnh của gió. Từ láy “lạnh lẽo” không chỉ gợi lên cảm xúc của làn da mà cồn gợi lên sự im ắng đến lạ đời. đã không gian ấy không có lấy một tiếng động, chỉ có mặt nước đang trải dài với các lăn tăn của sóng. Sự tĩnh lặng ấy làm cho mặt nước vốn trong lành lại càng có thể trở nên trong xanh hơn. Người câu cá, trên chiếc thuyền nhỏ xíu có thể quan sát được cả các chùm rêu mềm mịn và mượt mà đang uốn mình dưới lòng nước rồi thấy cả bầu trời xanh ngắt đang in hằn lên mặt áo thăm thẳm. Sắc xanh che phủ tất cả khoảng không, nhẹ dịu tới cả trầm ngâm.
Hai câu thơ sau lại liên tục gợi lên sự tĩnh lặng của đất trời.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
ở cả hai câu thơ này, Nguyễn Khuyến đã rất tài tình bút pháp lấy động tả tĩnh. Đã xuất hiện âm thanh nhưng sao bé nhỏ quá. Đó chỉ là việc “hơi gợn tí” của các làn sóng nước, là một chiếc “vèo” chóng vánh của chiếc lá ngày thu đang rơi rụng. Có âm thanh thật đấy nhưng ta lại cảm nhận thấy nó bình lặng quá. cũng chính vì, chỉ trong không gian vắng lặng đến hiu quạnh ta mới có thể lắng nghe được từng âm thanh nhỏ nhắn ấy. Cái động tại đây càng làm tăng thêm sự yên bình của khung trời mùa thu. Trong câu thơ, sóng hiện lên là làn “sóng biếc”, xanh ngắt như ngọc bích. màu xanh của sóng, của nước của bầu trời bao phủ lấy khoảng không. và trên nền xanh ấy, một chiếc lá “vàng” lướt qua như cắt đôi bầu không gian. màu vàng ở đấy là màu đặc trưng của mùa thu với sự rụng lá. chỉ việc một cơn gió nhẹ, các cái lá sẽ rơi “vèo” xuống mà không còn lưu luyến. Một chi tiết rất thật, rất nên thơ.
Trong buổi câu cá ngày thu ấy, người thi sĩ quan sát kĩ tường mọi cảnh vật.
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
ngày thu, bầu trời trong veo hơn, cao vút & thoáng đãng hơn. Trên không trung, các đám mây trắng bồng bềnh “lơ lửng”. Chúng không hồ hởi trôi theo một số cơn gió mà lững thững đến ngưng đọng. Chòm mây cứ nhẹ dịu đứng đó, mơ màng như chính con tim con người. Đưa mắt lên cao quan sát sự thanh thoát của đất trời, tầm mắt lại chóng vánh rảo quanh từng con ngõ nhỏ. Trên miền quê ấy, phủ bọc bởi màu tươi tốt mát của trúc. những con ngõ ngoằn nghèo, quanh co nhưng lại vẳng lặng không một bóng người. có vẻ như, có 1 xúc cảm nào đó cứ man mác trong tâm địa người. Mặt ao đã yên lặng ngay đến mức xóm làng cũng yên ắng quá. Cảnh đẹp nhưng lại đượm buồn, thê lương.
Mãi đến cuối bài, Tấm hình con người mới chịu có mặt.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới ao bèo
Người đi câu cá hiện lên nhưng lại nằm phí trong tư thế im lìm, thư thả. Ông cứ ngồi đó, bên chiếc cần câu và đưa mắt ra nhìn xung quang. Đi câu cá nhưng lại chẳng hề chăm chú đến sự việc câu cá bởi lẽ ông đã “buông cần” chứ không phải là “ôm cần”. Mọi sự chăm chú như dành cho mẩu truyện khác & đi câu cũng chỉ là một chiếc cớ để ông đắm ngập trong sự yên bình của khoảng không. Trước các rối ren của chốn quan trường, người thi sĩ chỉ muốn rút lui, muốn tìm một nơi thanh tịnh, yên ả để hòa phù hợp với vạn vật thiên nhiên, với đất trời. tuy vậy, dù đã lui về quê ở ẩn, đã an lạc bên chiếc cần câu nhưng tâm lý ông Dường như vẫn còn đấy vướng bận đến bao chuyện nhân thế. thế nên, chỉ một tiếng cá rất khẽ dưới chân bèo cũng đủ để gia công ông giật mình bởi ông đang say sưa với những nghĩ suy của chính bản thân mình. Tiếng cá ấy làm ông bừng tỉnh, giúp ông quay trở về với thực tại & cắt phăng các suy nghĩ vẫn quẩn quanh trong đầu. Tiếng cá rất khẽ ấy càng nhấn mạnh sự yên ắng của bầu trời ngày thu, một sự yên ắng đến tột cùng.
như thế, với tám câu thơ ngắn ngủi nhưng bài thơ “Câu cá mùa thu” đã và đang vẽ nên bức tranh thu lặng ngắt & qua đó biểu hiện được tâm tư nguyện vọng, tâm trí của người sáng tác. “Thu điếu” sẽ mãi đọng lại trong thâm tâm người đọc & chẳng thể phai nhòa.
Bài nghiên cứu 25
Nguyễn Khuyến (1835-1909) hiệu là Quế Sơn, ông ra đời ở Tỉnh Nam Định nhưng cuộc đời ông đa phần lại sống ở Bình Lục, Hà Nam. Nguyễn Khuyến là người có tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, ông kiên quyết đấu tranh không chịu bắt tay với thực dân Pháp. các sáng tác của ông bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, các sản phẩm thực tế đa số là thơ.
Câu cá mùa thu là một trong những ba bài trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến gồm “thu điếu, thu ẩm, thu vịnh” được viết bằng chữ Nôm. biểu lộ tài năng kiệt xuất của Nguyễn Khuyến trong những công việc tả cảnh ngụ tình.
không gian ngày thu hiện lên qua hai câu thơ đầu quen thuộc, thanh tao:
Ao thu nóng sốt nước trong xanh
một cái thuyền câu bé tẻo teo
“Ao thu lạnh lẽo” Bức Ảnh chiếc ao “thu” rộng lớn giữa mùa thu mới “lạnh lẽo” làm thế nào, nhưng liệu nó có lạnh ngắt thật? ngày thu mùa của sương, mùa có nhưng cơn gió se se lạnh. thông qua mùa hè đầy chói chang của nắng, của sự việc sôi động của ngày hè oi ả, mùa thu lại mang trong mình chút trầm ổn nhiều lúc lạnh ngắt đến vậy. Nhưng ao thu đâu có lạnh lẽo đâu, mà chúng rất trong, trong đúng cả nghĩ đen lẫn nghĩa bóng, dòng nước trong vắt, lặng lẽ hay là tâm hồn của người thi sĩ “trong veo” như thế. Giữa cái ao thu có mặt một vật tưởng quen mà lại rất lạ, được nhà thơ ví von lại càng có điểm nổi bật. “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” – chiếc thuyền câu rất có thể chở được đến ba bố người, nhưng dưới con mắt của Nguyễn Khuyến nó chỉ bé “tẻo teo” mà thôi, một Hình ảnh tưởng ngột ngạt, bé xíu mà làm người đọc lại cảm thấy nhẹ dịu, thanh thoát bao nhiêu.
Bức Ảnh bức tranh của mùa thu dưới cái nhìn của nhà thơ liên tục được khắc họa bởi hai câu thơ tiếp:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
những làn “sóng biếc” lăn tăn trên bề mặt ao hòa quyện phố hợp uyển chuyển với “hơi gợn tí”, bức họa đồ thu không chỉ có cảnh mà còn tồn tại thanh lẫn sắc, đưa ta vào sự vận động của đất trời, mọi vật vận động tương tác với nhau rất chi là nhẹ nhàng, có chút gì đó hợp tác ăn ý càng khiến cho bức họa thêm sinh động hơn. biện pháp nghệ thuật và thẩm mỹ lấy động tả tĩnh, nhà thơ đã biểu đạt cho chúng ta thấy, cảnh vật bao quanh thật yên bình mới cảm được những chuyển động tưởng chừng như không tồn tại âm thanh đó. Phải một người dân có con tim cảm nhận tuyệt vời mới cảm được những âm thanh bằng toàn bộ giác quan hay đến như vậy! không những thanh mà còn sắc, sắc vàng của chiếc lá rụng mùa thu, tí tách được các làn gió se se lạnh của mùa thu đưa theo, đưa người đọc vào bức tranh làng quê yên bình mà yên bình đến thế. hợp lý và phải chăng, tình yêu thiên nhiên yêu cây xanh của Nguyễn Khuyến để đạt đến mức, hồn hòa vào thiên nhiên chăng?
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
khoảng không của bức họa đồ chiếm lĩnh được mô tả từ gần đến xa. Từ chiếc ao ngay gần con mắt đến bầu trời xanh trong của ngày thu “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”, động từ lơ lửng được nhà thơ sử dụng rất đắt, cho ta cảm giác chơi vơi, lơ lửng trước cảnh đẹp đất trời, bầu trời xanh nổi bật của ngày thu làm ta choáng ngợp, sau những trận mưa giông với bầu trời xám xịt của mùa hè, Tấm hình khung trời xanh ngắt một màu của mùa thu cho ta chút gì đó nhàn hạ, tĩnh lặng, nhẹ nhàng, lơ lửng trước việc bình yên đó.
Gần rồi xa, xa lại rồi gần “ngõ trúc” nơi thân thuộc của nhà thơ, ngõ trúc với hàng trúc xanh tươi rào, quanh co uốn lượn nhưng lại trống vắng đến thế, “khách vắng teo”, sự trống vắng của khách đến chơi hay sự trống vắng của 1 thi sĩ yêu nước, mang bao nỗi ưu tư?
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu khẽ động dưới chân bèo
Tấm hình một ông lão câu cá, tựa đầu gối buông cần hồi lâu mà chưa được thành quả đó, gợi cho những người đọc thấy được sự bế tắc chưa tìm được hướng đi cho chính bản thân mình hay cho một tấm lòng yêu nước thương dân, tìm cách giải phóng các tâm hồn hiện nay đang bị gông cùm? Giữa khoảng không yên bình đó, chỉ có một tiếng động độc tôn “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo” tiếng cá đớp động đó rồi mà sao ta chưa thể có thành quả đó, Nguyễn Khuyến có phải là câu cá? Hay ông đang chỉ muốn cảm nhận hết cái không gian yên bình tĩnh lặng thanh thoát của mùa thu làng quê kia, để tâm không bị nao núng trước những cám dỗ cuộc sống.
Câu cá mùa thu, là bức họa tả cảnh ngụ tình chiến thắng bùng cháy rực rỡ của Nguyễn Khuyến. nhà thơ hẳn phải có 1 tâm hồn tới mức xuất thần mới hoàn toàn có thể cảm nhận được các âm thanh bé xíu đến vậy. “Tĩnh” của cảnh vật hay chính là tĩnh trong trái tim hồn nhà thơ, đâu có có chút xao động của cuộc sống thường ngày, “tiếng sóng, tiếng lá rơi, tiếng cá đớp” nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn những lại có các va đập không còn nhỏ…
Bài thơ bộc lộ có tài kiệt xuất của Nguyễn Khuyến với vốn ngôn từ sâu rộng, bút pháp nghệ thuật và thẩm mỹ tài tình, thẩm mỹ và nghệ thuật lấy động tả tĩnh thắng lợi, tả cảnh ngụ tình được nhà thơ sử dụng linh động, những dùng từ, điệp từ và phối từ hoạt bát tạo kết quả thẩm mỹ và nghệ thuật tối đa, đi sâu vào lòng người. đâu phải thiên nhiên mà còn thấy được cả một con tim người thi sĩ.
Bài thơ Câu cá ngày thu thể hiện sự cảm nhận và thẩm mỹ gợi tả sắc sảo của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc ngày thu của Đồng bằng Bắc Bộ, cho thấy thêm tình yêu thiên nhiên, nước nhà, tâm trạng thời thế và tài thơ Nôm của nhà thơ.
phân tích bài thơ Câu cá mùa thu cụ thể chi tiết nhất 26
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một nhà nho có học vấn uyên bác, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc. với các bài thơ bình dị, hồn hậu về cảnh vật & cuộc sống đời thường con người vùng Bác bộ, Nguyễn Khuyến được ca tụng là “nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam”. Bài thơ mùa thu câu cá (thu điếu) là sản phẩm thực tế xuất sắc của Nguyễn Khuyến trong khoảng time ẩn cư ở quê nhà.
Nguyễn Khuyến là kẻ tài năng, có cốt cách thanh cao, chính trực; có tấm lòng yêu nước thương dân thâm thúy. con tim Nguyễn Khuyến khi nào cũng rộng mở, giàu cảm hứng trước cuộc sống đời thường & gắn bó với vạn vật thiên nhiên. Nguyễn Khuyến ít viết về ngày xuân mà mà tình cảm đặc biệt quan trọng cho ngày thu. có lẽ rằng do tâm hồn bất mãn với thời cuộc, muốn tìm một nơi để an trú lòng tin, ngày thu chính là một lựa chọn hiển nhiên đối với ông.
ngày thu là mùa của sự việc tàn phai, rất hợp với tâm trạng Nguyễn Khuyến lúc bấy giờ. Bài thơ Nằm ở phía trong chùm 3 bài thơ viết về đề tài ngày thu của Nguyễn Khuyến: “Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm”. Đây là một trong những bài thơ rực rỡ nhất trong mảng thơ Nôm của ông, sẽ là “điển hình hơn cả cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu)
Bài thơ biểu thị sự cảm nhận tinh tế và sắc sảo của Nguyễn Khuyến về vẻ đẹp của cảnh quan ngày thu ở đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời biểu lộ sắc đẹp tâm hồn và niềm ưu tư của nhà thơ trước then cuộc. Cảnh thu yên tĩnh, tình thu nồng thắm gợi lên cái hồn cổ điển của muôn năm xa lạ. Nguyễn Khuyến với cái tài của 1 người vốn gắn bó với đồng ruộng không cần dụng cong gì mà đã thâu tóm được cái hồn tinh tế và sắc sảo ấy:
Ao thu lanh tanh nước xanh ngắt,
một cái thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Cảnh chiếm lĩnh được gởi lên từ các Hình ảnh quen thuộc. Cảnh vừa trong vừa tĩnh, vừa thăng bằng, hợp lý, mang sắc đẹp nên thơ nhưng củng đượm buồn.
Điểm nhìn của thi nhân phát là thuyền câu trên ao thu với són biếc, lá vàng. góc nhìn hướng lên chầu trời cao (trời thu), hướng ra phía xa thấy ngõ trúc quanh co rồi quay về xuất phát điểm thuyền câu, ao thu. Cảnh sở hữu được đón nhận từ gần thấp đến cao, xa rồi từ cao, xa trở lại gần. Tầm nhìn toàn diện mọi hướng của không gian thu để nhận thấy tất cả các sắc đẹp của cảnh quan ngày thu.
bức họa đồ phong cảnh mùa thu hiện ra với những nét đặc thù vốn có của nó. Cảnh thu vừa trong trắng vừa yên bình. trong sạch với mặt “nước trong veo”, làn “sóng biếc”, với “bầu trời xanh ngắt” . Đó là một trong những bức họa thu cổ xưa với thi đề, thi liệu thân thuộc (thu thuỷ, thu thiên) nhưng lại thân thuộc, thanh sơ. tĩnh lặng với khung cảnh vắng ngắt, đường đi không một bóng người. Âm thanh rất mơ hồ làm khoảng không thêm quạnh vắng (cá đâu đớp động dưới chân bèo). những hoạt động rất nhẹ, rất khẽ (song hơi gợn tí, lá khẻ đưa vèo, tầng mây lơ lững, cá đâu đớp động dưới chân bèo) khơi gợi thêm sự yên bình của cảnh vật.
bức họa thu hài hoà, cân bằng về màu sắc, hình khối & đường nét. sắc tố hiện lên với gam màu chủ yếu là màu xanh lá cây gợi không gian se lạnh của mùa thu; một ít màu vàng của lá, white color của mây khiến bức họa thêm tấp nập.
Đường nét, hình khối cân đối cũng được gọt giũa, sắp xếp rất là tài tình với “ao thu nhỏ”, “chiếc thuyền câu” . Theo này cũng bé tẻo teo và dáng người cũng thu nhỏ lại. Đường nét mảnh mai, tinh tế với đường uốn lượn của ngõ trúc, đường gợn của sóng.
Cảnh mùa thu đẹp, buồn, tĩnh lặng, dân dã, thanh sơ, gần cận, rất tiêu biểu vượt trội cho mùa thu của làng quê Bắc Bộ. có lẽ nhà thơ đã quá kiệm lời khi nói quá ít về cảnh thu tuyệt đẹp và tĩnh lạng như tờ ấy. Ông như sợ nếu chạm nhẹ hay khẽ rung cũng có thể có thể làm đổ vỡ bức họa tuyệt hảo hiếm gặp ấy. như một bức tranh nước mặc đơn sơ mà ấn tượng, cảnh thu lập tức nằm gọn trong thâm tâm hồn người đọc, ẩn náu để rồi tỏa khắp miên man.
Tình thu hòa quyện trong trời xanh nước biếc. tác giả cách cảm nhận cảnh thu rất là sắc sảo bằng một tâm hồn thuần khiết của người gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đắt nước. Ông nâng niu tất cả, giữ gìn tất cả với những sắc đẹp dáng quý của nó. Mọi thứ xa hoa đều bị gạt bỏ, chỉ từ lại đay chất đơn sơ, mộc mạc mà thắm đượm nghĩa tình.
khoảng không thu yên bình gợi sự cảm nhận về nỗi cô quạnh, u uẩn trong lòng hồn nhà thơ:
Ao thu lạnh mát nước xanh ngắt,
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
bức họa mùa thu yên bình, u buồn cũng chính là tâm trạng về thời thế đầy uẩn khúc của người sáng tác. Ông chọn vần “eo”, một “tử vận” vốn rất oái ăm, khó làm để biểu đạt cảnh vật. Với vần “eo” gây cấn ấy, khoảng không càng có thể trở nên im thin thít, nhỏ dần, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc: veo-teo-vèo-teo-beo.
Từ “vèo” biểu lộ của dòng thời hạn đang trôi nhanh, rất nhanh. và như thế, cuộc đời, thế cuộc cũng thay đổi nhanh chóng. Thoáng chốc, đời người đã bước sang tuổi xế chiều. biết bao mong ước, khát vọng không được hoàn thành. Còn cuộc đời thì cứ hững hờ, dùng dằng, quanh co, không có hướng đi:
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Người nho sĩ với khát vọng kinh bang tế thế, trị nước bình thiên hạ, muốn cứu đời, làm đổi thay thời tuy nhiên giờ nhìn lại đã nhận thức thấy xa vời quá đỗi, bất lực nhìn dòng thời gian trôi đi.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Tựa đề bài thơ gây một sự chăm chú đặc biệt quan trọng. Câu cá ngày thu mà dường như không để ý đến chuyện câu cá, chỉ quan sát thiên nhiên, lắng nghe, hoà mình với vạn vật thiên nhiên. Chủ đề trữ tình có mặt trong tư thế ngồi bất động “tựa gối buông cần”. đó là tư thế thu mình lại, không hẳn để chờ đón mà là để suy tu. Cõi lòng nhà thơ đang tĩnh lặng tuyệt vời nhất.
Bài thơ kết lại trong cái động rất nhỏ của tiếng cá “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Chữ “đâu” diễn tả cái bất ngờ thảng thốt, cái ngơ ngác kiếm tìm như người mất phương hướng.
Bài thơ biểu lộ vẻ đẹp của một tâm hồn gắn bó với vạn vật thiên nhiên quốc gia. Dù ở quê nhà nhưng vẫn thấy lạc lõng, đơn độc trước thực tại. Lạc lõng là bởi không triển khai được chí nguyện của người đến lớp. Lạc lõng là bởi nỗi lòng sâu thẳm ấy không còn thổ lộ cùng ai. Chỉ có đất trời mới thấu hiểu. Đó cũng là tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không hề kém phần thâm thúy của Nguyễn Khuyến vậy.
Câu cá mùa thu rất chiến thắng với lớp ngôn từ đơn giản, trong sạch, giàu giá trị biểu cảm. Cách mô tả cảnh vật tinh tế và sắc sảo với bút pháp điểm nhãn đày tính nghệ thuật. Từ láy tạo hình lơ lững, tẻo teo… thể hiện mạnh khỏe sức khỏe tạo hình. Cách gieo vần eo gợi sự nhỏ hẹp của không gian thu ở làng quê, sự im re, thu nhỏ dần của không gian, hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc.
hơn thế nữa, nhà thơ còn sử dụng nhiều từ chỉ mức độ độc đáo: lạnh mát, xanh ngắt, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, trong veo, vàng teo, quanh co,…Kếp hợp với bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh cảnh sắc. áp dụng tài tình nghệ thuật và thẩm mỹ đối thanh đối ý. mùa thu câu cá thật xứng đáng là 1 tuyệt phẩm rực rỡ của làng thơ việt nam từ xưa đến thời điểm này.
Bài thơ biểu hiện sự hòa hợp giữa sắc đẹp u tĩnh của cảnh quan mùa thu với nỗi lòng u uẫn của một người muốn giữ phẩm giá trong sạch giữa cuộc đời rối ren, loạn lạc.
Nguyễn Khuyến đã rất chiến thắng khi vận dụng bút pháp miêu tả tinh tế, tài hoa (Thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh, tả cảnh ngụ tình). Ong cũng chăm chú sử dụng lớp ngôn từ trong trắng, đơn giản, giàu sức sexy nóng bỏng. Cách gieo vần “eo” (tử vận) được dùng khác biệt, góp thêm phần diễn đạt nội dung, gợi tả khoảng không lạng lẽ, sự thu nhỏ dần, tâm trạng đầy uẫn khúc… chắc hẳn rằng, sự gian nan ấy cũng chính là lòng tin bế tắc của ông trước thời cuộc.
mùa thu câu cá đã thể hiện sự cảm nhận và thẩm mỹ gợi tả tinh tế và sắc sảo của Nguyễn Khuyến về cảnh quan ngày thu đồng bằng Bắc Bộ, cùng theo đó cho biết tình yêu vạn vật thiên nhiên, quốc gia, tâm trạng thời thế & tài thơ Nôm của tác giả.
Bài phân tích 27
Nguyễn Khuyến làm thơ để gửi gắm tâm tình. Ông tả cảnh mùa thu đi câu cá nhưng đi câu chỉ là dịp để nhà thơ được nhìn ngắm nhìn cảnh vật vật, buông thả hồn mình, giao hòa với vạn vật thiên nhiên. Toàn bài Thu điếu là cảnh vật ở trạng thái tĩnh lặng & lắng lại đằng sau những câu chữ và Tấm hình của trời thu là nỗi lòng thầm kín của người sáng tác.
Ao thu mát mẻ nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Mùa sở hữu được khởi nguồn từ khoảng không “ao thu” – một Tấm hình đơn giản và giản dị, bình dân nơi vùng ao chuôm nước đọng của miền quê Bắc Bộ. Cái lạnh lẽo thấm vào “ao thu”, nước thu & thấm cả vào hồn người cảm nhận. Bức Ảnh “nước trong veo” gợi cảm giác đứng yên một cách tuyệt vời. mùa thu thường không tồn tại gió mạnh để mặt nước chao động 1 cách kinh hoàng nhưng lại hay có mặt những làn gió nhẹ phe phẩy làm xê dịch mặt nước dù chỉ là rất khẽ, rất nhẹ. Nguyễn Khuyến đã vẽ lên bức họa đồ thu hết sức yên bình, tĩnh tới mức mà tác giả thấy được “nước trong veo”, Hình như soi được đến tận cả đáy ao. Với cách gieo vần “eo” khiến cho cảnh đã lặng càng lặng hơn.
Trên cái nền ao thu bé xíu đó xuất hiện một chiếc thuyền, có khắp cơ thể đi câu. Chiếc thuyền đã bé lại tẻo teo, cảnh Hình như co lại đến hơn cả tột cùng, khác hẳn vối không gian trải rộng trong Thu vịnh. nếu như cảnh ở Thu vịnh bát ngát bao nhiêu thì cảnh ở bài Thu điếu lại thu hẹp lại bấy nhiêu. Chiếc thuyền “tẻo teo” Nổi lên trên mặt ao có vẻ như cũng không di động. cả hai câu thơ là một cảnh yên bình, bất động.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Đã bước đầu có một chút ít xấp xỉ của mặt nước. Cái động rất khẽ, mọi cảnh vật vẫn tĩnh lặng. Cái gợn lên của mặt nước thực ra là động mà để nói tĩnh. Có tĩnh, có lặng thì tác giả mới nghe được cả tiếng lá “đưa vèo”. Một tiếng lá rơi giữa ngày thu mà thi nhân cũng cảm nhận được độ rơi, âm thanh của nó thì quả thực khoảng không ấy đã hoàn toàn im ắng. Đưa và lại “đưa vèo”, “vèo” là một trong những động tác rơi rất nhanh nhưng chính là “bay vèo”, tuy vậy tại đây lại “đưa”, “đưa” thì không còn nhanh được mà thậm chí chậm. Mà khẽ đưa vèo thì nó còn nhuốm vào đây một ít buồn, chút ngẩn ngơ. Với Nguyễn Khuyến, mùa thu không tới bằng Bức Ảnh lá ngô đồng nữa mà xuât hiện “lá vàng” — có lẽ rằng là lá tre, lá trúc ở quanh quẩn bên bờ ao cứ đến mỗi độ thu về thay lá thì lại rơi xuống mặt hồ. Hình ảnh này râ’t thân thuộc, đặc thù cho mùa thu ở nông thôn VN. không gian được đẩy ra cao rộng hơn.
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
“Tầng mây lơ lửng”, khung trời được nâng cao lên che phủ hết cái ao nhỏ xíu. Cái “lơ lửng” của tầng mây, cái “xanh ngắt” của nền trời tạo một cảm giác bâng khuâng khó hiểu. “Ngõ trúc” – một Tấm hình mà hầu như làng quê nào trên non sông việt nam cũng không thiếu. con đường làng “quanh co” tạo nên cái uốn lượn vòng vèo & có một chút ít hun hút của ngõ làng trong một buổi chiều vắng. “Vắng teo” vắng đến không có một bóng người.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ nói đến chuyện đi câu mà đến câu thứ bảy rồi mới xuất hiện Hình ảnh của ông già câu cá. Người câu “tựa gối” như suy tư điều gì chứ không chú tâm vào việc câu cá. Hình như Nguyễn Khuyên mượn cái thú đi câu để nghĩ về sự việc đời, việc nhân tình thế thái chứ không thật vì mục đích câu cá. vậy cho nên ngồi đã lâu mà chẳng được con cá nào. Đến cái điều mà tác giả đang nghĩ suy cũng lặng đi trong cái “tựa gối”.
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Câu thơ làm mặt nước rung lên, chao động. Cả bảy câu thơ phần lớn toàn là cảnh lặng trong trạng thái tĩnh, riêng câu thứ tám làm lung lay cả bài thơ. Cái động phá tan sự tĩnh lặng, u buồn, để cho cảnh có thể trở nên sinh động hẳn lên. “Cá đâu đớp” là câu hỏi tu từ, một thắc mắc càng nhấn mạnh vấn đề thêm việc đi câu không phải là đa phần mà chỉ là cái cớ để nhà thơ thả những tâm sự kín mít của chính bản thân mình vào cảnh vật, vạn vật thiên nhiên, đất trời mùa thu. Câu thơ cuối của bài bát cú thường được gọi bằng câu “điểm nhãn”. Sau vẻ tĩnh lặng của 1 sức sông tiềm ẩn, mãnh liệt, tạc vào thi nhân trong tầm vóc ngư ông, một đường nét bất động trên bức họa thu. suy nghĩ Nguyễn Khuyên dâu có đặt ở việc câu cá, ông còn mãi ngắm cảnh và bận suy tư. Bởi vậy nên người câu cứ tựa gô’i ôm cần, mà cá thì cứ bình thản “đớp động”. Hai việc ấy chả có gì liên quan tới nhau cả.
Bài thơ là bức tranh thủy mặc giữa ngày thu đẹp tuyệt vời được dệt bằng ngữ điệu dưới bút pháp tài tình của Nguyễn Khuyến. Thu điếu vừa vặn vừa buồn, nét đẹp giành cho thiên nhiên vạn vật, cái buồn giành cho nỗi lòng nhà thơ – cái buồn mang ý nghĩa nhân bản của một con người luôn nặng nợ với đất nước, quê hương.
Bài phân tích 28
nằm phí trong kho báu văn thơ trung đại VN có tương đối nhiều bài thơ viết về mùa thu hay và nhắc tới thơ thu là kẻ ta không thể không nói tới chùm thơ thu của Tam Nguyên Yên Đổ – Nguyễn Khuyến. & bài thơ Câu Cá mùa thu – Thu Điếu được mỗi cá nhân vô cùng thương yêu.
Đọc bài thơ Nguyễn Khuyễn đã khắc tạc, vẽ lên các đường nét dễ dàng nhưng cũng đã cho chúng ta biết được cái chứa chan, sự mênh mang của mùa thu như hiện ra trước mắt người đọc.
Ao thu lạnh mát nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn khơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu Điếu đã được tạo cho bằng tất cả những thi liệu đượm chất thu và nó còn mang được màu sắc hết mực cổ điển. nói theo một cách khác Tấm hình “thu thủy” – chỉ làn nước ngày thu sóng đôi với “thu thiên”- Bức Ảnh bầu trời thu, phối hợp cùng lá thu và Hình ảnh người câu cá đó là những đường nét quan trọng trong bức họa thu của Nguyễn Khuyến. Ao thu Theo luồng thông tin có sẵn đên vốn dĩ là một khoảng không chẳng còn không quen của vùng quê Bắc Bộ. Thế rồi giữa trung tâm của bức tranh thu là một chiếc thuyền câu như cứ “bé tẻo teo”. hoàn toàn có thể thấy chính từ chính chiếc thuyền con giữa lòng ao nhỏ ấy thì với ánh nhìn của thi nhân bao quát ra xung quanh & cảm nhận mặt nước ao thu lạnh ngắt, ao thu lại còn trong xanh đến hết độ. trải qua đây ta nhận biết được ngày thu hiện lên với nào sóng biếc “gợn tí”. & Bức Ảnh lá vàng được cơn gió thu đưa vèo trong cơn gió, bầu trời xanh ngắt rồi ngõ trúc cứ thật quanh co uốn lượn – Hình ảnh đặc trưng mùa thu vùng quê Bắc Bộ. với những nét xinh này khung cảnh quê nhà mang được bao nhiêu sự giản dị thân thuộc, nối liền với quê nhà.
Ao thu lạnh buốt nước trong veo
một cái thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn khơi gợn tí
không hẳn ngẫu nhiên mà tác giả Xuân Diệu từng nhận xét rằng “Thu điếu (Câu cá mùa thu) là nổi bật hơn cả cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam”. thông qua đây người đọc như phân biệt được Tấm hình của ngày thu của thi nhân không những gây ấn tượng ở sắc tố, mùa thu ấy không chỉ đẹp trong từng nét họa mà còn vang động những thanh âm rất cá tính nữa. Bức Ảnh Ao thu hiện ra qua hai tính theo đó là: lạnh mát & xanh ngắt – ao lạnh, nước yên & trong đến tận đáy. Bức Ảnh khung trời Nguyễn Khuyến lại lựa chọn điểm tô màu “xanh ngắt”. Với Tấm hình màu xanh da trời này nó còn đó là sợi chỉ xuyên thấu kết nối chùm thơ thu ba bài của thi nhân lại với nhau. Màu trong veo đó là blue color không trộn lẫn, không gợi tạp mà này lại nhấn mạnh vấn đề thần thái riêng của mùa thu.
Bức Ảnh lá vàng là một trong Tấm hình đặc thù của mùa thu kết phù hợp với ngõ trúc tạo ra một thần thái riêng cho làng cảnh nước ta. Thế rồi chính với câu thơ cuối đã được người sáng tác khéo léo lồng vào bút pháp thi ca cổ điển chính là nghệ thuật lấy động đánh tĩnh. chắc chắn phải là 1 trong những khoảng không yên bình tuyệt đối thì cả con người với thiên nhiên hiện giờ đây mới có thể giật mình trước âm thanh rất nhỏ chính là Tấm hình tiếng cá đớp động. chắc rằng chính cái động của tiếng cá đớp càng làm khá nổi bật cái tĩnh chung của cảnh. Người đọc như nhận ra được bức họa đồ thu hiện lên với sắc đẹp thanh vắng, quạnh hiu & ở đây cũng chỉ có độc tôn thi nhân đã và đang trong vai của 1 ngư ông đang đối diện với vạn vật thiên nhiên mà giống như đang chìm vào cõi suy tư trầm ngâm. chiêm ngưỡng cảnh không gian tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng, cảnh hẹp & thu nhỏ trong khuôn ao làng xóm
không còn sai khi ta nhận xét rằng bức họa đồ thu của Nguyễn Khuyến còn là sự hòa quyện sắc sảo giữa muôn vàn cung bậc của những “điệu xanh”. Rồi như điểm xuyết trong số điệu xanh chính là Bức Ảnh của lá vàng đã tạo lên được sự nổi bật của bức họa đồ thu. tác giả Nguyễn Khuyến giống như đang nghiêng lòng mình, ông như lặng mình để có thể lắng nghe mọi tàn phai trong sự hoạt động khẽ khàng của cảnh. hoàn toàn có thể thấy được cả bức họa thu là sự việc hòa điệu về đường nét vận động mảnh mai, luôn nhẹ dịu đến sắc sảo thông qua chuỗi những động từ được sử dụng trong bài như; “khơi gợn tí”, “lơ lửng”, “khẽ đưa vèo”… Bức Ảnh ao thu nhỏ nên thuyền câu bé, trời xanh ngắt nên giúp màu nước thêm trong, khách vắng teo nên người ngồi câu cũng trầm ngâm và vô cùng im re. Chính bức họa đồ thiên nhiên được hòa sắc vào nét, tất cả như đã bỗng trở nên hợp lý xứng hợp, đẹp tươi đến lạ kì.
Với hai câu thơ cuối kết lại mạch cảm hứng, gợi ra lòng người thanh bình với tư thế thu mình ngồi đến lặng lẽ của một ngư ông đang lánh đục về trong.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Nhà thơ Nguyễn Khuyến như chú ý dõi nhìn phong cảnh mùa thu, cho tới lúc nghe tiếng cá đớp động dưới chân bèo thì khi ấy ông mới bất ngờ sực tỉnh. Cứ như vừa quay trở lại với thực tại, nhà thơ đã đưa mình vào trạng thái lửng lơ vậy. Liệu có phải người đi câu cá hay chỉ đi để ngẫm nghĩ về cuộc sống đặc biệt là đối với một người lánh đục về trong như Nguyễn Khuyến. trải qua đây người đọc nhận ra được ở Nguyễn Khuyến một con tim gắn bó với vạn vật thiên nhiên, một tấm lòng yêu nước thuần hậu, thầm kín nhất. Khi thể hiện được nỗi buồn trong cảnh thì không xẩy ra đẩy được mức độ u uất mà luôn phủ rộng đến nhẹ nhàng, bao quanh nhưng vẫn tạo ra được một khoảng chừng lặng trong tâm địa hồn. Bài thơ viết về ngày thu đã mang trong mình 1 nỗi u hoài ấy của tác giả. điều này mới có thể tạo sự lưu luyến trong tim trí người đọc, làm ra bao nhiêu nỗi day dứt với đời và chia thành giá trị trường tồn, sức sống lâu bền cho sản phẩm thực tế
Với “Thu điếu” Câu cá ngày thu của tác Nguyễn Khuyến đã hình thành cho chính bản thân một chỗ đứng quan trọng trong nền thơ ca trung đại việt nam từ xưa tới nay. Bài thơ chất chứa những con chữ mà lại mang được cái tình của người thi nhân yêu nước. Qủa không sai khi nói bài thơ hơn một bức họa tả cảnh trời thu.
Bài nghiên cứu 29
Nguyễn Khuyễn sinh 1835 mất 1909. Lúc nhỏ tên là Thắng, học giỏi, mưu trí. quê hương Nguyễn Khuyến thuộc tỉnh Hà Nam ra đời ở quê ngoại: Hoàng Xá nay là xã Yên Trung, huyện Ý Yên, Nam Định. Lớn lên, Nguyễn Khuyến về quê nội: Làng & (Vị Hạ), xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. gia đình Nguyễn Khuyến có truyền thống nho học. Nhưng đến đời cụ thân sinh ra Nguyễn Khuyến không đỗ đạt chỉ ở trong nhà dạy học. Nguyễn Khuyến đỗ đầu cả ba kì thi: Hương, Hội, Đình. Người ta gọi cụ là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan 14 năm. Năm 1884, Nguyễn khuyến nghị quan về làng, dạy học sống thanh bạch. Nguyễn Khuyến là kẻ có tài, cốt cách thanh cao, chia sẻ đồng cảm với dân cư ở quê nhà ông & tấm lòng yêu nước thầm kín, kiên quyết không phù hợp tác với tổ chức chính quyền thực dân Pháp. Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán & chữ Nôm, con số lớn. Hiện còn 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ. Thơ Nguyễn Khuyến biểu hiện tình yêu quê hương, quốc gia, gia đình, bạn hữu, phản ánh cuộc sống thuần hậu, chất phác, bần cùng của nhân dân. cùng theo đó tỏ thái độ châm biếm đả kích những tầng lớp thống trị, bọn thực dân và tay sai phong kiến. đóng góp trông rất nổi bật nhất của Nguyễn Khuyến đối với nền văn học dân tộc là mảng thơ viết về làng quê, thơ trào phúng & ngôn từ thơ Nôm.
Thu điếu nằm ở trong chùm thơ thu (3 bài). Cả ba bài đều phải sở hữu chung một đề tài về mùa thu (Thu Vịnh, Thu điếu, Thu ẩm). Câu cá mùa thu hòa hợp giữa cảnh vạn vật thiên nhiên thanh sơ của nông thôn êm đềm, im lặng vào tiết thu với tâm trạng thời thế kín đáo của thi sĩ.
Viết về ngày thu là đề tài rất gần gũi của thi ca phương Đông. Nhà thơ Đỗ Phủ đời Đường (Trung Quốc) có tới tám bài. Viết về ngày thu, mỗi thi nhân đều phải có cách riêng của mình. Với Nguyễn Khuyến, làng cảnh việt nam đặc biệt là đồng bằng Bắc bộ hiện lên trong chùm thơ thu rất rõ. vượt trội đặc biệt là trong Thu điếu.
Bài thơ được thiết kế theo thể thơ Nôm Đường luật (thất ngôn bát cú). Hai câu đầu: trình làng cảnh câu cá mùa thu, bốn câu tiếp: Cảnh thu ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ, hai câu cuối là tâm sự người sáng tác.
Bài thơ lộ diện thời hạn & không gian nghệ thuật và thẩm mỹ đầy thi vị, đầy ắp không khí làng cảnh vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Ao thu mát rượi nước trong veo
một cái thuyền câu bé tẻo teo
Điểm nhìn của nhà thơ từ gần đến cao xa rồi từ cao xa quay về gần. Từ chiếc thuyền câu trên ao thu lạnh ngắt mà nhìn ra, nhìn lên. đặc điểm của vùng quê Bình Lục – Hà Nam, vùng đồng chiêm trũng nên lắm ao. Nhiều ao, thuyền câu trở nên bé nhỏ. Điểm nhìn cảnh thu của người sáng tác thật độc đáo: khác với Thu vịnh, cảnh chiếm hữu được đón nhận từ cao xa tới gần, lại từ gần đến cao xa, còn Thu điếu thì Ngược lại. từ một khung ao hẹp, cảnh chiếm lĩnh được xuất hiện thêm theo không ít hướng tấp nập. thời hạn không hẳn là 1 trong ngày một buổi mà cả một mùa thu. Từ điểm nhìn ấy, nhà thơ quan sát và ghi lại: Cảnh thu rất dị, rất riêng. Cảnh điển hình hơn cả cho ngày thu làng cảnh việt nam. Nguyễn Khuyến đã chọn các Tấm hình rất tiêu biểu vượt trội cho mùa thu xứ Bắc ( Ao thu, gió thu, trời thu) để rồi quan sát cận cảnh với các sóng biếc gợn rất nhẹ, một chiếc lá vàng rụng theo gió khẽ khàng:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Màu “biếc” của sóng hoà phù hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. thẩm mỹ đối trong phần thực rất điêu luyện: “lá vàng” với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương xứng với khoảng độ “tí” của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã không còn lời ngợi ca chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của chính mình may ra mới đã có được câu thơ vừa lòng trong bài “Cảm thu, tiễn thu”: “vèo trông lá rụng đầy sân”.
Hai câu luận lan rộng ra không gian diễn tả. bức tranh thu có bổ sung thêm độ cao của bầu trời “xanh ngắt” với “những tầng mây lơ lửng” trôi theo chiều giớ nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt”:
“Trời thu trong veo mấy tầng cao” (Thu vịnh)
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Thu ẩm)
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu)
“Xanh ngắt” là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (xám) mà trong veo, thăm thẳm. xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của khoảng không, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như bà con dân làng đã ra đồng hết. Xóm thôn tĩnh mịch. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Cảnh đơn sơ, thanh nhẹ chỉ được phác vẽ bằng đôi nét chấm phá như trong tranh thuỷ mặc: ao thu nước cả & thuyền câu bé tẻo teo, sóng gợn tí và lá rụng vèo, mây lơ lửng giữa khung trời xanh ngắt; ngõ trúc quanh co không bóng người. Bức Ảnh thơ bình dị, không còn xa lạ, không những bộc lộ cái hồn của cảnh thu mà còn biểu hiện cái hồn của cuộc sống ở nông thôn xưa. “Cái hấp dẫn của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh trời, xanh bèo” ( Xuân Diệu).
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Câu 7 tả tư thế người ngồi câu kiên trì, bó buộc, Dường như ông đang lắng nghe tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Tiếng cá có vẻ như có thật nhưng cũng tương đối mơ hồ, khe khẽ không xác định. Dù hiểu như thế nào chăng nữa thì người câu rõ ràng chẳng Để ý đến chuyện câu cá, được cá hay không mà đang câu lòng, câu người, đắm chìm ngập trong suy tư, trong tim trạng. Tâm sự của 1 nhà nho lánh đời thoát tục tuy vậy vẫn không nguôi nghĩ về nước nhà nhân dân, về sự việc bế tắc, bất lực của bản thân? Nhàn thân tuy vậy không nhàn tâm, Nguyễn Khuyến không còn thư thả đi câu như một ẩn sĩ thực thụ. Nỗi buồn ấy của Nguyễn Khuyến là đáng quý. Nó giúp ông giữ được nhân cách trụ được đến ngày này. Nỗi buồn ấy đáng để chúng ta ngả mũ nghiêng mình. Ta mới hiểu Tại Sao trong bài Di chúc có đoạn ông dặn các con mình:
Việc tống táng lăng nhăng qua quýt
Cúng cho thầy một ít rượu be
Đề vào mấy chữ trong bia
Rằng: quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu
thế cho nên là tình thu ở chỗ này không những cảm tình với ngày thu mà còn là một tấm lòng gắn bó tha thiết với thiên nhiên quê nhà, 1 tấm lòng yêu nước, yêu dân thầm kín nhưng không hề thua kém phần sâu sắc.
Bài thơ là bức tranh thu mang vẻ đẹp nổi bật cho ngày thu, làng cảnh Việt Nam; cảnh đẹp tuy nhiên buồn, vừa phản ánh tình yêu đất nước vừa cho biết thêm tâm sự thời thế của người sáng tác. Thơ thu của Nguyễn vừa có những mặt giống với cách viết về mùa thu trong văn học cổ nhưng có những mặt rất mới : chính là các nét vẽ thực hơn, từ ngữ, Tấm hình đậm hồn dân tộc.
Bài phân tích 30
Nhắc tới những bài thơ viết về mùa thu nước ta, người ta không còn không nhắc đến chùm ba thơ thu của nhà thơ “Tam nguyên Yên Đổ” Nguyễn Khuyến mà “Thu điếu” là bài thơ tiêu biểu nhất. Bài thơ không những khắc họa bức họa vạn vật thiên nhiên, làng cảnh Bắc bộ & tâm sự sâu sắc của nhân vật trữ tình mà còn để lại ấn tượng cho người đọc nhiều thế hệ bởi sự áp dụng phát minh sáng tạo, chiến thắng Tấm hình, ngôn ngữ văn học dân tộc bản địa. Ông xứng đáng được xem như là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu).
“Ao thu lạnh giá nước trong veo
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
“Thu điếu” là bài thơ Nguyễn Khuyến sáng tác khi đã từ quan về ở ẩn. Đọc bài thơ ta bắt gặp các Bức Ảnh thân quen vẫn thường gặp ở các vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc bộ: một chiếc ao thu bé nhỏ, chiếc thuyền câu cũng nhỏ, những ngõ trúc quanh co… Tình yêu vạn vật thiên nhiên tổ quốc, cảm tình gắn bó dành cho quê nhà vốn đã tiếm ẩn trong tâm hồn Nguyễn Khuyến nay được dịp “bùng nổ” mãnh liệt. Văn thơ Nguyễn Khuyên là sự phối hợp 1 cách nhuần nhuyễn trong những cái tinh hoa của văn học bác học với vản học dân gian được chắt lọc từ ngàn đời của dân tộc. Văn học dân gian đó là cội nguồn nuôi dưỡng văn học dân tộc bản địa nhưng cũng chính văn học bác học với các trí thức mưu trí, bác cổ đã đóng góp thêm phần rất chi là quan trọng giữ gìn, phát huy sáng tạo văn học, hỗ trợ cho văn học dân gian cải cách và phát triển. Sự trở về Yên Đổ là một trong những bước ngoặt quan trọng ra quyết định trong công danh và sự nghiệp vãn học của ông. đó chính là sự trở lại với cuộc sống đời thường của nhân dân, hoà mình vào không gian sống, môi trường xung quanh văn học vốn thân cận với ông từ thuở lọt lòng. Nguyễn Khuyến là 1 trong những trong số những nhà thơ nổi tiếng viết về nông thôn của văn học dân tộc bản địa, một nông thôn nước ta với đầy đủ các âm thanh & sắc tố đặc thù từ ngàn đời, rất dị mà gần cận, không còn xa lạ mà xinh tươi đến diệu kỳ. Trong “Thu điếu”, người ta bắt gặp một chủ đề thân quen vẫn thường gặp trong dân gian, trong cuộc sống đời thường bình dị của người lao động: Bức Ảnh ngư ông, thuyền câu, ao nước. Đó cũng là những Tấm hình rất đặc thù của quê nhà ông, vùng đồng bằng chiêm trũng Hà Nam, đặc trưng của vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. trong 1 không gian bé xíu, bình lặng, bài thơ không gợi nhưng cũng đã làm hiện lên Tấm hình nhà thơ trong dáng hình của một ngư ông – một người nông dân thực thụ. Con người và vạn vật thiên nhiên hài hoà trong bức họa đồ thu tĩnh lặng. Khí thu buồn, ấy là chất thu đặc trưng tự ngàn đời và đến nay, nó lại thường xuyên xuất hiện trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến nhưng để rồi buồn theo điệu buồn của riêng nó, điệu buồn của cảnh & của người ngoạn cảnh. những âm thanh và Bức Ảnh vốn thân thuộc của ngày thu lại tiếp tục được miêu tả trong sự chuyển động của làn nước & đặc biệt là chiếc lá thu:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời trong veo
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo’’
Sóng cũng chỉ “Theo làn hơi gợn tí” bởi chắc rằng vì gió rất nhẹ. Gió nhẹ phù hợp với khí thu & cũng bởi cho khỏi phá vỡ đi cái bầu không khí tĩnh lặng vốn đang xuất hiện từ ngàn đời kia. và trong khung cảnh Dường như tĩnh đến tuyệt vời ấy xuất hiện một Bức Ảnh rất động, dù chỉ là thoáng diễn ra rất nhanh: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng có lần viết: “Cái mê hoặc của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu xanh lá cây vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. “Diệp lạc tri thu”. lâu nay, nhìn chiếc lá vàng rơi người ta biết ngày thu đang về. ngày thu của Nguyễn Khuyến cũng như vậy. Ông cảm nhận ngày thu qua cái lạnh & tĩnh của làn nước mùa thu, của làn gió thu se lạnh & ông cũng luôn ghi nhớ đưa vào đó một cái lá thu “khẽ đưa vèo”. Đó là một trong khoảnh khắc diễn ra rất nhanh mà Dường như người ta không chỉ có nhìn thấy bằng mắt thường mà còn phải bằng một con tim nhạy cảm thâu tóm lấy cái hồn của tạo vật.
bầu trời mùa thu cũng là Bức Ảnh rất lôi cuốn được đưa vào trong thơ Nguyễn Khuyến. Ta đã phát hiện Hình ảnh “Trời thu trong xanh mấy tầng cao” trong “Thu vịnh”, và “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong cặp mắt của nhân vật trữ tình trong “Thu ẩm” & ở đấy là “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. cũng tương tự chiếc lá vàng, bầu trời thu cũng trở thành một nét đặc thù cho mùa thu nước ta xứ Bắc. bầu trời ngày thu Dường như được đẩy lên, cao hơn nữa, trong hơn nhưng cũng chính vì như thế mà sáng và nhẹ nhàng hơn. Khí thu lạnh, khung trời thu buồn không làm mất vẻ đẹp của cảnh vật cũng như không làm mất sắc đẹp của bầu trời ngày thu. Nó không gay gắt như mùa hè, không u ám và mờ mịt như ngày đông, mà với những áng mây trôi lơ lửng Hình như bầu không khí mùa thu còn khiến khung trời trở nên cao hơn nữa, trong hơn và xanh hơn thế nữa. Đặt trong khung cảnh như thế, con phố làng vốn đã đìu hiu nay lại càng trở nên vắng tanh, quạnh quẽ hơn. không có chút bóng dáng của con người. Chỉ có Hình ảnh ngư ông được hiện lên từ trong câu chữ khiến cho “Thu điếu” gần như biến thành một bài thơ dành trọn vẹn cho bức họa đồ mùa thu. Nhà thơ vào vai một ngư ông nhưng rồi một cách không cố ý lại biến mình thành người ngoạn cảnh, để rồi, thu vào thời gian mắt tất cả hồn cốt của mùa thu Bắc Bộ. Người say sưa ngoạn cảnh bởi có tình yêu so với vạn vật thiên nhiên, giang sơn sâu sắc, bởi ngày thu xứ Bắc đẹp, thanh bình & lôi kéo lòng người và cũng bởi người ngoạn cảnh trong thâm tâm đang có khá nhiều tâm trạng, hoà mình với vạn vật thiên nhiên, đó cũng là bởi, người đi câu cá nhưng lại là “đi câu” sự thanh thản trong thâm tâm hồn. Bài thơ mang tựa đề “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) nhưng mãi đến cuối bài thơ mới xuât hiện người đi câu:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá dâu đớp động dưới chân bèo”
Hình ảnh con người ở phía trong tư thế bất động, như chạm khắc vào vạn vật thiên nhiên, hài hoà với vạn vật thiên nhiên thành một khối thống nhất, tĩnh lặng. Người đi câu để ý với suy tư của bản thân đến mức Dường như quên mất rằng mình đang đi câu. Chỉ đến khi tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” mới làm cho ngư ông chợt tỉnh, kéo ông quay trở về với hiện thực. Chỉ là một tiếng cá đớp động dưới chân bèo nhưng lại đủ sức kéo con người quay về với hiện thực chứng minh bức họa đồ thu đó phải tĩnh lặng lắm và con người lòng cũng đang rất nhiều tâm sự. chính là tâm sự thầm kín của 1 người luôn nặng trĩu suy tư về quê hương, đất nước, về trọng trách của chính mình đối với quê nhà giang sơn mình. Người đã nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc ngày hôm nay.
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”.
“Câu cá mùa thu” là một trong bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. phong cảnh mùa thu quê nhà được diễn tả bằng những gam màu đậm nhạt, các nét vẽ xa gần, sắc sảo sexy nóng bỏng. Bài thơ dựng lên bức tranh vạn vật thiên nhiên đặc thù của vùng đồng bằng Bắc bộ với tương đối nhiều nét thanh bình, những ấn tượng về một mùa thu đẹp & buồn. Nguyễn Khuyến đã rất tài tình trong những công việc áp dụng từ ngữ “lạnh, lẽo, trong xanh, bé tẻo teo” gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa “vèo” trong làn gió thu, tiếng cá “đớp động” chân bèo – chính là tiếng thu bình dân thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong tâm địa tất cả chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê nhà nước nhà. các hình ngôn ngữ đầy sức gợi đó không chỉ có minh chứng cho có tài nghệ thuật và thẩm mỹ của Nguyễn Khuyến mà còn góp phần tạo sự một bức họa ngày thu viết về làng cảnh việt nam rất riêng, thật buồn & cũng thật đẹp.
Nguyễn Khuyến yêu vạn vật thiên nhiên ngày thu, yêu cảnh sắc đồng quê đối với tất cả tình quê nồng hậu. ông là nhà thơ của làng cảnh VN. Đọc “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”, chúng ta yêu thêm ngày thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đát nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu ngày thu đẹp cũng chính là yêu quê nhà tổ quốc. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị quang vinh trong nền thơ ca truyền thống VN.
Bài nghiên cứu và phân tích 31
mùa thu là mùa của lá vàng rơi, là mùa dễ gây nên con người ta xao động. nhất là đối với con tim tinh tế & nhạy cảm như nhà thơ Nguyễn Khuyến, ngày thu lại càng có thể trở nên xuyến xao hơn. Ông từng viết cả chùm thơ về mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Mỗi bài đều mang những tâm tư tình cảm, cảm tình rất riêng biệt của thi nhân. trong số ấy, Thu điếu biểu lộ tình yêu chân thành & đơn sơ, đơn giản và giản dị của người sáng tác qua sắc đẹp mùa thu ở làng quê việt nam.
Nguyễn Khuyến đã thả hồn mình vào thiên nhiên, vào cảnh thu:
Ao thu lanh tanh nước xanh ngắt
một cái thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
rất có thể thấy cảnh quan ngày thu ở chỗ này rất êm đềm, nhẹ nhàng và yên bình. Mọi thứ đều đang nằm trong tầm ngắm của nhà thơ. chính vì như vậy, mỗi câu thơ đều ôm trọn cảnh thu. Nhưng tiếc rằng mùa thu không bùng cháy rực rỡ, không nhộn nhịp như mùa hè, cũng không mơn mởn các chồi non như ngày xuân. mùa thu mát mẻ nước trong xanh, một cái thuyền câu bé tẻo teo. Sóng cũng chỉ kín tiếng theo làn hơi gợn tí. tất cả thường rất uyển chuyển nhưng lại gợi nỗi buồn xa xăm. hợp lý trong cảnh thu ấy còn chất chứa nỗi niềm của thi nhân? Nguyễn Khuyến là kẻ tài giỏi, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dần, từng bày tỏ thái độ nhất quyết không hợp tác với chính quyền thực dân. Thơ ông phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, các tầng lớp thống trị, đồng thời thể hiện tấm lòng ưu ái so với dân, với nước. bởi thế, ngày thu trong Thu điếu chính là các nỗi niềm riêng tư của nhà thơ đối với tình cảnh cộng đồng đương thời. Ông không chọn mùa xuân với những hoa mai hoa đào rực rỡ tỏa nắng cho vần thơ thêm nhạc điệu, thêm phấn kích. Ông cũng không chọn cái nắng hè chói chang gay gắt trên những chùm hoa gạo của mùa hạ để dẫn vào thi ca. Ông hòa tâm hồn vào ao thu, vào các cái Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Lá vàng là Bức Ảnh úa tàn & đặc thù của ngày thu. Lá vàng cũng thường gợi đến một khung cảnh buồn bã, có chút hụt hẫng bâng khuâng.
Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Lại thêm 1 màu xanh nữa ngập tràn trong trang thơ của thi nhân. Trời mây trong xanh với các tầng mây lửng lơ trôi mang theo một số nỗi niềm khó nói thành lời của lòng người đang băn khoăn nghĩ suy về thời thế. Ông ngước lên cao, rồi lại cúi xuống nhìn Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. mùa thu lặng ngắt, thôn quê lại càng lạng lẽ hơn. Đã thế, cách gieo vần “eo” của tác giả lại càng để cho không gian dần thu hẹp lại.
Trong khung cảnh ấy, thi nhân đóng vai là một lão nông đang tựa gối buông cần nhưng lâu chẳng được. & ông nhận thấy rằng Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Âm thanh độc tôn trong tất cả bải thơ vang lên, tưởng như âm thanh ấy sẽ phá tan sự lặng ngắt của khoảng không, nhưng chính nó lại nhấn mạnh thêm sự im lìm của cảnh vật. người sáng tác lấy tĩnh tả động và ông đã thắng lợi khi rót sự im lặng vào lòng người bằng một âm thanh rất nhỏ.
Nhưng ý nghĩa sâu xa đằng sau tiếng cá đớp động dưới chân bèo là những tâm sự thầm kín của nhà thơ. Ông đã chiếm hữu cả đời mình cống hiến cho triều đình, cho quốc gia, cả đời đi theo tiếng gọi của chân lý, chưa một lần làm điều mờ ám hay bị dính án quan liêu. vì vậy, tâm hồn Nguyễn Khuyến cũng trong veo như nước trong ao thu, và cũng yên bình như mọi cảnh vật vạn vật thiên nhiên ông đang chiêm ngưỡng và ngắm nhìn.
tác giả câu cá nhưng thực chất tâm trí lại không hề chăm chú tới cần câu, đó chỉ là cái cớ để ông nghĩ suy tới thời thế và quốc gia. trong những lúc triều đình còn nhiều thăm quan, ông không thể nào một mình đứng ra để loại trừ được hết những vấn nạn đó được. vì vậy, mùa thu của Nguyễn Khuyến đã ra mắt theo chiều sâu tư tưởng phảng phất buồn, theo các nỗi niềm thấp thỏm thầm kín. điều này đã biểu lộ tấm lòng yêu nước thâm thúy của thi nhân. Ông muốn góp sức hết mình cho nhân dân, cho quốc gia.
tất cả bài thơ mô tả cảnh thu nhưng những từ ngữ, những Tấm hình trong các số đó lại chứa đựng tâm tình của người sáng tác. Ông lấy tĩnh tả động, lấy cảnh tả tình. Dù không một lời liên đới nói lên nỗi lòng mình nhưng người đọc vẫn hiểu rõ sâu xa tình cảm của thi nhân. Bài thơ đã đưa tới cho nền văn học quốc gia một mùa thu rất mới, mua thu theo cách riêng của Nguyễn Khuyến.
Bài nghiên cứu và phân tích 32
ngày thu đã đi đến ít nhiều những vần thơ và bức vẽ tuyệt đẹp của người nghệ sĩ. mùa thu với một chút ít nhẹ nhàng, thơ mộng & đầy sexy nóng bỏng. các nét trẻ đẹp của sắc thu chắc rằng chính vì vậy mà dễ thâm nhập vào con tim con người và gợi lên các xúc cảm chân thực nhất. Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã và đang gói mùa thu vào vào các sáng tác của chính bản thân mình mà tiêu biểu là chùm thơ thu nổi tiếng với ba bài: Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm. Mỗi bài đều phải sở hữu cái hay, nét đẹp riêng nhưng bài “Câu cá mùa thu” (Thu điếu) có 1 sự lôi kéo mãnh liệt như Xuân Diệu đã từng có lần khẳng định “Điển hình hơn hết cho ngày thu của làng cảnh Việt Nam”. “Thu điếu” không chỉ có gợi lên vẻ đẹp nhẹ nhàng của mùa thu mà từng câu từng chữ của bài thơ còn là một lòng yêu quê nhà, giang sơn thiết tha.
“Câu cá mùa thu” là 1 trong những sáng tác nổi tiếng Nằm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, cùng với Thu ẩm, Thu vịnh tạo thnahf bộ ba để đời của nhà thơ. Sáng tác này được ông viết khi đã rời khỏi chốn quan trường về que eowr ẩn. Chính tình yêu quê hương & vạn vật thiên nhiên sâu đậm đã giúp ông viết lên được các vần thơ đẹp lung linh đến vậy.
Bằng thể thơ Thất ngôn bát cú cùng theo với ngôn ngữ bình dị nhưng sắc sảo, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên mọt bức họa đồ thu với các vẻ đẹp long lanh của đất trời. mở đầu bài thơ mở ra một khoảng không mênh mông, xanh thẳm.
Ao thu nóng sốt nước trong xanh
mùa thu, mặt nước dềnh dàng, bình lặng. Nó không còn dữ dội và xối xả với các trận mưa rào mùa hạ. những ao, các hồ tràn trề nước. chính vì sự yên bình của con nước mà mặt hồ như trong hơn. Người ta có thể nhìn thấy vào trong trái tim nước, xuống tận đáy hồ & cam rnhaanj blue color mát của những đám rêu đang đeo bám. chắc rằng, người sáng tác viết bài thơ này khi đã sang nửa sau của ngày thu. những cơn gió heo may tràn về, đem theo cái không khí se lạnh đặc thù của cuối thu. Giữa làn nước bao la ấy, các cơn gió thổi qua càng làm ta góp thêm phần lạnh giá. Mọi thứ cứ nhẹ dịu, yên ả phía trên mặt hồ lan tăn đẩy sóng. & cái khoảng không yên ắng ấy càng làm nổi bật lên một sự chuyển đọng dù chỉ là rất nhỏ.
một cái thuyền câu bé tẻo teo
Giữa mặt hồ bát ngát ấy xuất hiện một sự sống của con người. mặc dù thế, chính sự to lớn của thiên nhiên mà chiếc thuyền câu càng có thể trở nên bé bỏng. Nhà thơ dùng số từ “một” để chỉ cái ít, cái đơn chiếc, đã vậy lại còn thêm cụm từ “bé tẻo teo” như để nhấn mạnh vấn đề lên sự cô đơn, hiu quạnh. Dường như, trên chiếc thuyền ấy, nhà thơ đang một mình lân cận cần câu. Mình ông đơn độc giữa mặt hồ rọng lớn. Ông đắm chìm vào vạn vật thiên nhiên để tận thưởng trọn vẹn vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên. chỉ với hai câu thơ, với những nét vẽ dễ dàng cũng đủ để người đọc hiểu được phần nào tâm tư nguyện vọng của người thi sĩ trước vẻ đẹp của ngày thu, của đất trời.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
tại chỗ này, đã ban đầu có sự hoạt động. các cơn gió kéo đến làm mặt nước lăn tăn, tí tách theo ánh nắng mặt trời trông thật đẹp mắt. Gió không quá mạnh, không thực sự to những cũng đủ để dòng nước bình yên kia khẽ đưa mình đung đưa. Trên các vòm cây bên bờ, lá đã vàng, vàng theo sắc màu mơ mộng của mùa thu. Cơn gió đến, lá cũng thả mình đi theo. một cái lá rơi xuống, bé bỏng nhưng sao lại gây chú ý đến như thế. có lẽ rằng, vì khoảng không yên ắng & thanh bình quá nên chỉ có thể một âm thanh nhỏ cũng đủ để ai cũng phải ngước nhìn. Chữ “vèo” được nhà thơ sử dụng thật đắt giá. Nó nhanh, mạnh và dứt khoát.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
cảnh quan ngày thu đã được rộng phủ ra rộng hơn, cao hơn nữa & xanh thẳm hơn. bầu trời trong veo với các đám mênh trắng bồng bềnh đang lặng lẽ nhích từng bước đi. Sắc xanh của mặt nước trong veo, của bầu trời trong xanh cùng gold color ươm thơ mộng của các chiếc lá đã tạo nên một bức tranh thu tuyệt đẹp. thế nhưng, giữa vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên, khong gian vẫn yên ắng quá. Con người chẳng thấy đâu, vắng teo, hịu quạnh. Một không khí sao bình yên đến quái dị.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Người thi sĩ “tựa gối ôm cần” trong phong cách thư thả, tự tại. Ông đã hòa mình vào với vạn vật thiên nhiên bằng tất cả các cảm giác bình yên & hạnh phúc. có vẻ như, chiếc thuyền câu ấy ra hồ Chưa hẳn vì mục tiêu câu được không ít cá mà chỉ là đi chiêm ngưỡng và ngắm nhìn núi sông, cây cỏ. Người đâu Để ý đến việc cá có ăn mồi và cắn câu hay là không. Ông mãi đắm chìm vào thiên nhiên, mải thả hồn để quên đi những muộn phiền của cuộc sống thường ngày để rồi bất chợt nhớ đến chiếc cần câu, âm thanh nhỏ xíu của cá cũng làm ông giật mình và bừng tỉnh.
như thế với ngôn từ thơ mộc mạc, gần cận, Nguyễn Khuyến đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức họa đồ phẳng lặng, mơ mộng trong một buổi chiều câu cá ngày thu. qua đó, gợi lên tâm thế nhàn rỗi và tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu đậm của một vị quan lỗi lạc nhưng không gặp thời.
Bài nghiên cứu 33
Làng cảnh nước ta lúc đất trời vào thu đẹp một sắc đẹp thanh sơ, bình dị mà thật nên thơ, nhưng không mấy ai đưa được sắc đẹp ấy vào thơ 1 cách thân tình như Nguyễn Khuyến. Cũng chẳng mấy ai nói được tình cảm bình dị mà lắng sâu của con người việt nam với làng xóm quê nhà như ông. nhắc tới Nguyễn Khuyến, người yêu thơ luôn nhớ được chùm thơ của ông viết về mùa thu như 1 chùm hoa đẹp có hương sắc lâu bền, trong những số đó bài Câu cá mùa chiếm được coi là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến. Bài thơ có sự hòa hợp giữa cảnh thiên nhiên thanh sơ của nông thôn êm đềm, lạng lẽ vào tiết thu với tâm trạng thời thế kín đáo của thi sĩ
Nhan đề bài thơ là Câu cá mùa thu nhưng mục đích không ở việc kiếm cá ăn; câu cá chỉ là cái cớ để tiêu sầu & cảm nhận hương sắc mùa thu. còn điều gì khác thú vị hơn được ngồi câu cá giữa một vùng cảnh quan rất gần gũi của quê hương mình, để hồn thu thấm vào hồn người. Lúc Nguyên Khuyến viết bài thơ này, gót giày quân xâm lược Pháp đã đặt lên nhiều nơi trên quốc gia, cộng đồng thuộc địa đã được lập nên ở vài đô thị. Nhưng làng quê VN, làng quê nghìn đời của Nguyễn Khuyến vẫn giữ được sắc đẹp thanh sạch, giản dị, điệu đà như cô gái chân quê xứ Bắc với “ cái áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen”. Nguyễn Khuyến đi câu cá là để tắm mình trong không khí nguyên sơ ấy của mùa thu quê hương cho khuây khỏa nỗi thương đau trong tâm địa.
“Ao thu lạnh buốt nước xanh ngắt
một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Bài thơ xuất hiện thêm thời gian và không gian nghệ thuật đầy thi vị, đầy ắp không gian làng cảnh vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì đi câu cá nên điểm xuất phát của cảm hứng là chiếc “ao thu”. Ao là 1 trong những Tấm hình rất gần gũi, thân thiết, bình dị ở làng quê xứ Bắc. Nguyễn Khuyến chọn ao thu để khơi nguồn thi hứng, vì đó là điệu tâm hồn ông: gần gũi, chân thành, bình dị, rất chi là gắn bó với làng quê. Chiếc ao thu trong tấm lòng yêu thương & rung cảm thẩm mĩ của Nguyễn Khuyến đẹp và gợi cảm xúc như 1 sản phẩm thực tế mĩ thuật. Chiếc ao thu ấy “ lạnh lẽo” 1 cách đầy chất thơ. Gió thu đã mang đi heo may về và ban phát cho vạn vật của mùa thu làm cho nó dễ thương và đáng yêu hơn.
Từ sự nắng nóng oi tức giận của mùa hè chuyển hẳn qua cái se lạnh của heo may mới thật là thi vị. Đã vắng những trận mưa rào xối xả của mùa hạ, nước trong ao thu thấm cái nóng bức của heo may mà lắng trong đến độ như được tinh lọc, trong veo “ trong veo” đến tận đáy. bên phía trong cái tiếng “ trong veo” đặt ở cuối câu thơ như có niềm rung cảm thích thú. Trời hôm ấy lặng gió và ít nhiều nắng, rất sáng, nước trong ao mới có độ “ trong veo” như thế. mới chỉ nói nước thu (thu thủy) mà ta đã nhận thức thấy trời thu, nắng thu, gió thu. Độ hàm súc, sự sắc sảo trong cách dùng từ của Nguyễn Khuyến cũng thật đáng khâm phục. Trước mắt người đọc là một khoảng không gian mùa thu trong sạch & yên bình vô cùng.
Hiện lên trên khuôn “ ao thu”, giữa không gian thu “ lạnh lẽo” ấy là “ một cái thuyền câu bé tẻo teo”. Người đi câu không ngồi trên bờ mà ngồi trên chiếc thuyền câu để buông câu chính là để mở ánh mắt khoảng không thu cho rộng ra. Ao thu chắc không hề to lắm, cho nên vì thế chiếc thuyền câu cũng cần phải “ bé tẻo teo”. đó chính là chiếc thuyền thúng thân quen ở vùng quê Bình Lục, chiếc thuyền chỉ tương đối đầy đủ cho một người ngồi, khá đầy đủ để gọi là “ thuyền”, bé thêm hơn chút nữa thì thành cái thúng! từ thời điểm cách đó non một thế lỉ người ta thấy rất nhiều chiếc thuyền thúng như thế len lỏi giữa xóm làng của Hà Nam, nước lụt mênh mang “ Bóng thuyền thấp thoáng vừa trên vách – Tiếng sóng lộng lẫy vỗ trước nhà” ( Nguyễn Khuyến, Vịnh lụt).
Ngồi trên chiếc thuyền giữa ao thu nên nhiều vẻ đep của ngày thu dễ đến trong vòng nhìn của thi sĩ.
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai câu thực là cảnh trong tầm nhìn gần ( cận cảnh). Trong ao nhỏ có sóng, có gió nhưng rất nhỏ, rất nhẹ & và rất đẹp. “Sóng biếc” có nghĩa là “sóng xanh”; sóng theo gió nhẹ chỉ “ hơi gợn” trên mặt ao thành hình, “lá vàng” cũng theo gió “ khẽ đưa” thành tiếng. Cả hình và tiếng đều cực nhỏ. Cuối hai câu thơ, Nổi dậy hai từ đối nhau: “ tí”, “ vèo”- một từ nói lên cái cực nhỏ của hình khối, một từ miêu tả sự cực nhỏ của âm thanh, người đọc còn nhận dạng được chiếc lá với hình dài thon nhọn, nhẹ & nhỏ: chiếc lá tre, lá trúc đang xoay xoay mà liệng xuống. không gian động mà tĩnh, hữu thanh mà vô thanh. những làn sóng hơi gợn, âm thanh mơ hồ của chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” như xao động trong cõi lòng cũng yên bình như làng quê, mùa thu của thi sĩ.
“Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
khoảng không nghệ thuật và thẩm mỹ đột ngột mở lên độ cao và lộ diện hướng trước mặt. Trên cao là trời thu cao xanh, trước mặt là đường làng ngõ xóm ngày thu quanh co, vắng ngắt. Trong cảm nhận của Nguyễn Khuyến, da trời ngày thu có màu “ xanh ngắt” rất khơi gợi, cái blue color liền một khối tinh khiết, thăm thẳm, để cho các ai ngẩng mặt lên ngắm trời thu đềucó xúc cảm mông lung, huyền ảo, vời vợi. Nhờ có “ tầng mây lơ lửng” phía dưới mà phân biệt “ trời xanh ngắt” bên trên. Đó là một nét rất gần gũi thi pháp cổ điển: lấy điểm tả diện.
Đang vào vụ thu, người ra đồng làm lụng nên đường làng ngõ xóm im re. Thảng hoặc có người thì cũng trở thành cái quanh co của ngõ trúc che khuất. Thành thử không gian vắng lặng đên tuyệt đối: “vắng teo”!
ở 2 cặp câu thực và luận có đủ sóng gió, trời, mây, có sắc tố, âm thanh, Hình ảnh, có vận động, …Nhưng mỗi từ ngữ trong bốn dòng thơ ấy đều gợi cho ta phải đọc bằng giọng êm dịu, nhẹ nhẹ. Âm hưởng bốn dòng thơ nhẹ êm như hơi thở.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá dâu đớp động dưới chân bèo
Đến đây chủ thể trữ tình mới xuất hiện, có mặt trong tư thế ngồi bất động “ tựa gối ôm cần” – tư thế co lại, như thu nhỏ mình lại để giảm bớt diện tích S tỏa nhiệt tránh cái” lạnh lẽo” giữa ao thu. Ngồi như vậy cũng chính là để ngồi cho lâu, cho khỏi phải thay đổi tư thế làm mất cái yên bình trong cõi lòng đang mải suy tư & khỏi đứt đi “dây tơ” vô hình đang giăng mắc trong khoảng không mùa thu làng quê êm đềm, cũng chính vì “ khoảng không như có dây tơ – bước đi sẽ dứt, động hờ sẽ tiêu” ( Xuân Diệu).
Nguyễn Khuyến muốn ngồi trong tĩnh lặng mà trầm tư mặc tưởng, gắn cái cô đơn trống trải của lòng mình vào cái cô tịch, trong trẻo của mùa thu làng quê. thực tế khi lấy cớ đau mắt nặng để cáo quan về hưu ẩn dật, Nguyễn Khuyến đã mang nặng mặc cảm bất lực trước thời cuộc. Trong bài thơ Di chúc, ông có các câu thơ đau đáu đến từng chữ.
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.
vì thế, thấm đẫm trong Thu điếu là tâm sự rối bời trước thời thế của ông, ôm cần buông câu để tiêu sầu mà mối sầu càng đọng lại trong tư thế bất động, thấy chiếc “ lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” mà thảng thốt thấy thời thế đổi khác quá nhanh, tổ quốc đã lâm vào tay giặc mà mình chẳng thể làm những gì để báo đền ơn vua, nợ nước.
Bài thơ kết lại trong cái thảng thốt khi trong im lặng bỗng có tiếng cá “ đớp động dưới chân bèo”. Chữ “đâu” được dùng thật thần tình, nó như cái bất ngờ thảng thốt, lại như cái ngơ ngác kiếm tìm của người mất phương hướng. Ba phụ âm đầu hữu thanh trong ba từ “ đâu đớp động” làm rung động câu thơ, rung động cả tâm hồn người đang mải suy tư. Dù chỉ là rung động mơ hồ (có mà như không) cũng đủ để cho khoảng không ngày thu lắng lại tĩnh vô cùng. Đó cũng chính là một nét thi pháp thân thuộc của thi pháp: lấy động tả tĩnh.
Tiếng Việt trong Câu cá mùa thu ở độ kết tinh, giản dị và đơn giản, trong sạch, tinh tế và sắc sảo,uyển chuyển, có công dụng biểu đạt những biến thái tinh vi của sự việc vật, nững uẩn khúc rất khó giãi bày tâm trạng. Vần “eo” là “ tử vận”, oái oăm không dễ theo, đã được Nguyễn Khuyến dùng một cách thần tình để diễn đạt uẩn khúc của tâm tư nguyện vọng.
“Câu cá mùa thu” mang lại vẻ đẹp giản dị, thanh sơ của ngày thu làng quê Việt Nam; vẻ đẹp của con tim Nguyễn Khuyến: trong sạch, bình dị, tinh tế và chân thành, rất gắn bó với những gì thuộc sở hữu quê nhà & dân tộc…Đó là tất cả những gì đã khiến cho bài thơ Câu cá ngày thu sống mãi trong thâm tâm các thế hệ bạn đọc.
Bài phân tích 34
Trong văn học VN mùa thu luôn là đề tài lôi cuốn những nhà văn nhà thơ. đặc biệt quan trọng trong những số ấy có nhà thơ Nguyễn Khuyến, trong tương đối nhiều những tác phẩm của ông không hề không nói đến bài thơ Câu Cá mùa thu. Ở ngay nhan đề của bài thơ & có mặt ngay nội dung chính nhưng nội dung chính lại không lấy việc câu cá làm mục tiêu chính mà đó chỉ là cái cớ để tác giả tô đậm thêm mùa thu mà thôi. Nguyễn Khuyến đã sử dụng hết các giác quan của mình để cảm nhận ngày thu của đất Bắc.
mở màn bài thơ theo thơ được tác giả đã nêu lên khoảng không của bài thơ chính là “ao thu”.
“Ao thu mát rượi nước trong veo,
một cái thuyền câu bé tẻo teo”
tác giả đã đánh dấu một thời gian đó chính là mùa thu trên cái ao nhỏ tại một vùng quê nào đấy. sau đó ông lại cảm nhận được tính chất: “lạnh lẽo”, “nước trong veo”. mùa thu lúc nào cũng đưa về cho con người ta cảm nhận thấy hơi se lạnh nhưng lại có cảm xúc vô cùng dễ chịu và thoải mái hơn so với ngày hè nóng nực kéo dãn. Cái lạnh của ngày thu dễ gây lòng người trào dâng đến cảm giác nồng thắm và chính tác giả đã nhận được ra. Vả lại ngoài cái lạnh còn có một đặc điểm là mặt nước trong hơn những mùa khác. ngày thu trên bề mặt ao yên ả khiến người sáng tác cảm thấy nước trong hồ có thể trở nên xanh ngắt hơn nhưng một cái gương. trên mặt nước ấy xuất hiện một “chiếc thuyền bé tẻo teo”. tác giả đã sử dụng từ ngữ vô cùng khéo léo để cho những người đọc cảm nhận được sự nhỏ bé của chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Âm “eo” là từ rất chi là khó để gieo vần nhưng người sáng tác & để cho ta cảm thấy đoạn thơ vô cùng cho trôi chảy thoải mái và tự nhiên. VN có vô vàn các con sông lớn, hồ lớn như Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, sông Hồng… mà những nhà thơ xưa vẫn luôn lấy làm đề tài để sáng tác. Vậy mà Nguyễn Khuyến lại lựa chọn một cái ao nhỏ không tên ở một vùng quê nhỏ hẻo lánh. Nhưng chính vì vậy lại khiến cho ta cảm thấy có cái gì đó quen thuộc gần gũi bình dị. hợp lí chính là Lý Do để cho ông cả tâm hồn mình vào để cảm nhận ngay từ các cái tưởng chừng quá không còn xa lạ kia
Để vẽ nên bức họa đồ nông thôn bé xíu thân quen này, trên ao nhỏ có một cái thuyền nhỏ đã tạo sự một bức tranh mang Bức Ảnh thăng bằng hài hòa và hợp lý. Nhà thơ giờ đây đang ngồi trên một cái thuyền câu như vậy một cái ao như thế hoặc cũng chính là nhà thơ đã tình cờ nhìn thấy người câu cá. Nhưng mặc dù cho là gì thì nhà thơ cũng đã nhận ra nhiều vẻ đẹp ẩn giấu của mùa thu. không chỉ có mặt nước, thuyền câu, Nguyễn Khuyến còn có những quan sát tinh tế và sắc sảo tới các điều bé xíu khác:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
ở hai câu tiếp theo người sáng tác quan sát “sóng” trên ao và bao quanh “lá vàng” đung mang theo gió. đó là những Hình ảnh tưởng dễ dàng và đơn giản thông thường nhưng ở cuối hai câu thơ người sáng tác khi cho người đọc bỗng ngỡ ra bởi hai từ đối nhau:”tí”,”vèo”. đó là những từ vô cùng đặc biệt quan trọng một từ nói lên sự cực nhỏ của hình khối, từ sót lại diễn đạt cực nhỏ & nhanh của âm thanh. người sáng tác khiến cho tất cả những người đọc cảm nhận được qua từng cấp độ”hơi gợn tí”,”khẽ đưa vèo”. Nếu ở 2 câu trước người sáng tác nói lên những khung cảnh gần thì tới hai câu luận tác giả lại hướng ra phía xa hơn một chút ít
“Tầng mây lơ lửng trời trong xanh
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
chính là bầu trời trong xanh của ngày thu. greed color là màu đặc trưng của mùa thu với các đám mây tầng những tầng lớp lớp lơ lửng trước nền xanh của bầu trời. Để cảm nhận được hết các vẻ đẹp của chính nó thì phải là người có con mắt tinh tế và sắc sảo, sự quan sát tinh tường của nhà thơ. Nguyễn Khuyến lại hướng nhìn về làng ngõ xóm vốn đã yên tĩnh đìu hiu lại càng thấy hiu quạnh hơn khi “khách vắng teo”. Ít người di chuyển và đi lại mà nếu có thì cũng bởi cái ngõ quanh co không nhìn thấy bóng người.
bức họa đồ mùa thu có bốn câu thơ tuy có dáng hình có sắc tố có âm thanh nhưng tất cả đều giống hệt như một làn gió nhẹ hơi thở nhẹ của mùa thu. Đến hai câu thơ kết ta mới phân tích và lý giải được địa điểm của tác giả trong khung cảnh ấy. Nếu không hẳn đang ngồi trên chiếc thuyền nhỏ câu cá & với tư thế ngồi đó thì làm thế nào người sáng tác có thể viết lên cảnh ngày thu sôi động như vậy. Hai câu thơ cuối người sáng tác có mặt không như sáu câu thơ trên không một bóng người thì tác giả đã khiến cho người đọc vô cùng bất ngờ đột ngột bởi tư thế câu cá của ông:
”Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Tư thế tựa gối khiến cho ta cảm thấy sự chờ đợi của người sáng tác suốt cả một khoảng thời gian dài để trầm tư, tự trải nghiệm cảnh quan chứ không phải chỉ đơn giản là câu cá. Cứ ngỡ như người sáng tác đã quên mình đang câu cá để thả hồn vào vạn vật thiên nhiên nhưng chính bởi: “lâu chẳng được” đã chính tỏ tác giả vẫn đang chờ đón cá đớp mồi. Dù phải chờ đón rất lâu nhưng người sáng tác không tỏ ra lo sợ. Câu thơ cuối “Cá đâu đớp động dưới chân bèo” âm thanh cá đớp mồi khiến cho cả bài thơ khẽ rung động. hợp lý và phải chăng đây là cái rung động mơ hồ đáng quý để cho tác giả chờ đón để rất có thể tận mắt chứng kiến khoảng thời gian rất ngắn hiếm hoi này.
bức họa đồ ngày thu của Nguyễn Khuyến được ông diễn đạt bằng các từ sắc sảo và đường nét hồn nhiên lôi kéo người đọc. Bài thơ xứng danh là 1 bài thơ vượt trội về làng cảnh VN vì nó đem tới cho ta nhiều cảm nhận mớ lạ và độc đáo về quê nhà bình dị nhưng thân quen.
mong muốn tổ hợp những bài nghiên cứu trên về bài thơ Câu cá mùa thu của người sáng tác Nguyễn Khuyến có thể đưa về cho bạn đọc nhiều góc nhìn, cũng tương tự cảm nhận sâu sắc hơn về bài thơ. Bpackingapp.com chúc các bạn học tập thật tốt!
Here's my website: http://bpackingapp.com
![]() |
Notes is a web-based application for online taking notes. You can take your notes and share with others people. If you like taking long notes, notes.io is designed for you. To date, over 8,000,000,000+ notes created and continuing...
With notes.io;
- * You can take a note from anywhere and any device with internet connection.
- * You can share the notes in social platforms (YouTube, Facebook, Twitter, instagram etc.).
- * You can quickly share your contents without website, blog and e-mail.
- * You don't need to create any Account to share a note. As you wish you can use quick, easy and best shortened notes with sms, websites, e-mail, or messaging services (WhatsApp, iMessage, Telegram, Signal).
- * Notes.io has fabulous infrastructure design for a short link and allows you to share the note as an easy and understandable link.
Fast: Notes.io is built for speed and performance. You can take a notes quickly and browse your archive.
Easy: Notes.io doesn’t require installation. Just write and share note!
Short: Notes.io’s url just 8 character. You’ll get shorten link of your note when you want to share. (Ex: notes.io/q )
Free: Notes.io works for 14 years and has been free since the day it was started.
You immediately create your first note and start sharing with the ones you wish. If you want to contact us, you can use the following communication channels;
Email: [email protected]
Twitter: http://twitter.com/notesio
Instagram: http://instagram.com/notes.io
Facebook: http://facebook.com/notesio
Regards;
Notes.io Team